lúa trên đồng
mênh mông chiếu trải
gió vui cuốn tổ tò vò
đàn chim chui vào rúc rích
Chiếu đồng ta thơm ngát làng ta
mỗi ngày
mặt trăng gửi hương
mặt trời quét nắng
Đêm đêm những nàng tiên
áp ngực
cười đùa
Sáng ra
đầy hương con gái
Anh mang chiếu về
giấu vào bồ vào cót
ngơ ngẩn lòng
hương con gái đâu đây?
Nước mắt từ chiếc cối đá lỗ
Lòng cối bóng mòn
bao đời khổ đau người giã
người giờ về đâu?
để lại thế gian
hốc mắt
đen ngòm
Ngày ngày mây trắng đi qua
hốc mắt nhớ màu gạo mới
chiều chiều nắng gió đi qua
mắt cối long lanh như khóc
Người giờ về đâu?
Chiếu đồng
Ngày mùa
lúa trên đồng
mênh mông chiếu trải
gió vui cuốn tổ tò vò
đàn chim chui vào rúc rích
Chiếu đồng ta thơm ngát làng ta
mỗi ngày
mặt trăng gửi hương
mặt trời quét nắng
Đêm đêm những nàng tiên
áp ngực
cười đùa
Sáng ra
đầy hương con gái
Anh mang chiếu về
giấu vào bồ vào cót
ngơ ngẩn lòng
hương con gái đâu đây?
Nước mắt từ chiếc cối đá lỗ
Lòng cối bóng mòn
bao đời khổ đau người giã
người giờ về đâu?
để lại thế gian
hốc mắt
đen ngòm
Ngày ngày mây trắng đi qua
hốc mắt nhớ màu gạo mới
chiều chiều nắng gió đi qua
mắt cối long lanh như khóc
Người giờ về đâu?
Đường trăng quê hương
Từ bao giờ em gọi đường trăng?
ta bắt gặp
cổng làng trăng đến
trăng soi suốt đêm đêm cho chúng mình hò hẹn
để em bâng khuâng
trăng lặn xuống ao chùa
Quê hương mình
đã khác ngày xưa
đường bê tông - hai đầu trăng lên xuống
đường bê tông - nối mùa hoa với mùa lúa chín
điện sáng cùng trăng
đón bước ta về
Quê hương mình
còn nắng còn mưa
lũ trẻ chân trần qua đường trăng
vụt lớn
Như chúng mình ngày xưa
người mai sau sẽ cùng nhau hò hẹn
con đường trăng
bát ngát giữa làng mình
Rồi qua đây
những đám cưới thật xanh
quả cau xanh
lá trầu xanh
cùng áo ai xanh màu trời biếc
Con đường trăng đi theo mải miết
trong từng đôi lứa nhớ thương nhau.
Nghe bước mùa xuân
Cái khoảnh khắc gần tới mùa xuân
chiều ba mươi
em ngồi rửa lá
Mẹ run run lau lại bàn thờ
người vội vã ôm hoa ra chợ
bước xuân về như thực như mơ
Cái khoảnh khắc ta nghe mùa xuân đi
đồng xanh lúa
cây gạo già xoè lá
nắng xuân non - ưng ửng má em hồng
lũ trai làng vươn vai thử sức
cây nhãn cuối vườn trĩu nặng cành cong
Cái khoảnh khắc ta nghe mùa xuân qua
cháu bi bô khẽ gọi ông bà
ta chợt đứng trước gương
thấy tóc mình điểm bạc
tháng năm buồn thoáng đã lùi xa
Cái khoảnh khắc ta nghe mùa xuân vui
là lúc bạn bè hân hoan chạm cốc
ai nghe được tiếng mùa xuân bước
thì mùa xuân đi với mỗi người.
Lưu Tuấn Kiệt như tôi biết
Để cuốn hồi ký của Viện Điện tử - Viễn thông có thêm chút nội dung về thơ, tôi điện cho anh Lưu Tuấn Kiệt (đang nghỉ hưu ở Văn Giang - Hưng Yên) gửi cho vài bài thơ tâm đắc và anh đã chọn gửi cho tôi hai bài, đó là các bài thơ anh viết trong lần đi chiến trường từ những năm 1968-1972.
Trước khi giới thiệu hai bài thơ của anh, xin có vài dòng viết về Lưu Tuấn Kiệt - thời trai trẻ (còn nay đã ở tuổi ngoài sáu mươi). Anh Kiệt vào bộ đội năm 1966 học trường Trung - Cao cơ điện (ngành điện xí nghiệp - khoá ngắn hạn), rồi Trung cấp kỹ thuật Ra đa. Anh về Viện Kỹ thuật Quân sự năm 1968, được phân về ban kỹ thuật của phòng nghiên cứu Điện Tử.
Giai đoạn này, việc nghiên cứu chống phá từ trường đang rất sôi động và khẩn trương. Cán bộ, chiến sĩ của Viện liên tục đi chiến trường Quân khu 4 và 559 để phá bom và huấn luyện cho các đơn vị. Lưu Tuấn Kiệt là một trong số những người đi chiến trường nhiều nhất. Nhìn dáng người gày gò của anh, ta thấy lạ là sao anh có sức chịu đựng dẻo dai như vậy.
Có điều đặc biệt là cả ba lần đi chiến trường anh đều phải chứng kiến sự hy sinh của đồng đội mình: cuối năm 1968, anh đi Quân Khu 4 trong đoàn anh Hoàng Kim Giao, tháng 2-1969 anh đi huấn luyện phá bom ở Hà Tĩnh với anh Ngô Trọng Tài, cuối năm 1971 đi Đoàn 559 cùng với Lê Hoài Tuyên. Kỷ niệm về các liệt sỹ trong mỗi lần đi chiến trường ở anh thật sâu đậm! Anh có thời gian ở chiến trường khá dài, đi lại nhiều, chịu đựng bom đạn không ít, nhưng lại không bị thương lần nào. Nói về chuyện này anh cười bảo: “Thì bom đạn nó tránh mình, chứ mình làm sao tránh được nó”.
Kiệt lại là người hoạt bát nhanh nhẹn, ăn nói có duyên, tuy không đẹp trai nhưng thuộc loại “tán” ác, vui nhộn, sống bỗ bã với anh em nên mọi người yêu quý . Chuyện Kiệt lấy vợ thì nhiều người còn nhớ. Cuối năm 1972, khi Viện Điện tử - Viễn thông sơ tán ở khu Đồi Thông (bây giờ xây khách sạn Khăn Quàng Đỏ) ở gần nhà máy bia Hà Nội. Lưu Tuấn Kiệt được thủ trưởng cho về tranh thủ ba ngày. Qua ba ngày không thấy Kiệt lên, đơn vị lo, thủ trưởng Khánh vò đầu, sốt ruột: Hay là cử người về quê tìm? Hai hôm sau Kiệt về và dắt theo một cô gái tới gặp anh Khánh nói: “Báo cáo thủ trưởng em lên chậm vì ở nhà bắt lấy vợ. Em đưa vợ em lên đây để trình diện, xin thủ trưởng thông cảm …”.
Sau một hồi ngạc nhiên anh Khánh mới bảo: “Việc đã xảy ra rồi, thôi được lần này tha cho cậu, nhưng không có kiểu tiền trảm hậu tấu như vậy nữa đấy!”. Thế rồi anh chúc mừng hai vợ chồng và Kiệt đưa vợ đi chào tất cả anh em. Việc này thật “tày đình” vì quy định trong quân đội trước khi lấy vợ phải báo cáo và nộp lý lịch cho tổ chức, đồng ý mới được cưới. Vậy mà… chắc hắn bí quá hoá liều!
Về Kiệt thì còn nhiều “giai thoại” nữa, nhưng việc anh làm thơ và là Nhà thơ là hoàn toàn nghiêm túc. Anh hay suy nghĩ để xúc cảm và nói lên được xúc cảm đó bằng những vần thơ. Anh có những bài rất hay và cả ngay trong những bài thơ bình thường cũng có những câu hay, rất đậm tình người, tình quê.
Do hoàn cảnh gia đình có khó khăn nên anh xin nghỉ hưu sớm. Về quê, với sức vóc làng nhàng của mình anh lại tiếp ttục đi cày để nuôi gia đình và làm thơ. Tôi nói anh đi cày ở đây là với nghĩa đen (theo sau đít trâu) thực sự, chứ không phải chỉ là đi chữa đài, chữa tivi theo nghề chuyên môn của anh. Sống ở quê tuy vật chất có nhiều khó khăn nhưng tâm hồn thanh thản. Trở về với hàng râm bụt trước cửa nhà, cây gạo đỏ đầu làng, về với những ngày hội quê… và những ý thơ, hồn thơ trong anh vẫn tuôn chảy. Thỉnh thoảng anh có sang Hà Nội thăm anh em và một số anh em có dịp lại sang Hưng Yên thăm anh. Quan hệ giữa anh và anh em cũ vẫn thân mật đầm ấm. Tôi nghĩ rằng cái chất Lưu Tuấn Kiệt của anh còn lưu mãi trong lòng bạn hữu!
Đại tá Đinh Quốc Khải
(Cán bộ nghiên cứu khoa học)
(Trích trong Những trang viết và hồi ký
của Viện Điện Tử Viễn Thông - năm 2005)