Theo một số thần tích và ghi chép khác thì Lưu Cơ người quê ở Bồ Bát, Bạch Liên, Yên Mô, Ninh Bình, là đồng hương gần với Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú. Lớn lên theo học Tri Hối tiên sinh ở Gia Viễn. Sau khi cha mẹ mất, ngoài 20 tuổi ông theo Đinh Bộ Lĩnh đánh giặc, trực tiếp dẹp sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại. Trong buổi thiết triều xưng danh quan tước đầu tiên của triều đình nhà Đinh, theo Việt sử lược, ông đứng tên đầu và được trao chức Thái sư Đô hộ phủ, cai quản toàn bộ Giao Châu, đóng đại bản doanh ở Phủ Đô hộ cũ, tức thành Đại La.
Lưu Cơ là tướng đi theo Đinh Bộ Lĩnh hùng cứ ở Hoa Lư thời nhà Ngô. Cả Đinh Điền, Trịnh Tú và Nguyễn Bặc cũng tham gia vào lực lượng này. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, Nguyễn Bặc được phong làm Định quốc công, Đinh Điền được phong làm Ngoại giáp, Lưu Cơ được phong làm Đô hộ phủ sĩ sư. Theo Đại Việt Sử Lược thì chức vụ Đô hộ phủ sĩ sư của Lưu Cơ chính là Thái sư ở Đô hộ phủ Đại La.
Theo ý kiến khác dựa vào thần phả các di tích thành Đại La thì Lưu Cơ là Thái sư Đô hộ phủ, cai quản toàn bộ Giao Châu, đóng đại bản doanh ở Phủ Đô hộ cũ, tức thành Đại La. Khi đó ông chừng 30 tuổi. Ông làm quan đến gần 70 tuổi thì cáo lão về hưu trí ở quê nhà, 3 năm sau thì mất, thọ 73 tuổi.
Hiện đền thờ ông còn ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, Văn Lâm, Hưng Yên (đất Siêu Loại cũ). Tương truyền đó là nơi ông đóng quân dẹp loạn sứ quân Lý Khuê năm 967.
Hôm nay, chúng tôi quay lại Đại Đồng, nơi năm xưa Lưu Cơ đã dẹp một trong 12 loạn sứ quân. Đó là một vùng quê yên bình, chỉ cách Hà Nội hơn 30km. 10 thế kỷ trôi qua, mọi thứ đã đổi khác, chỉ còn ngôi đền người dân lập nên để thờ ông. Ngôi đền nhỏ được người dân hương khói chu đáo hàng trăm năm nay là một di tích trong quần thể di tích thuộc xã Đại Đồng. Mảnh đất này là nơi còn lưu giữ được nguyên vẹn cấu trúc của làng quê Đồng bằng Bắc Bộ. Và đặc biệt, đó là nơi ghi lại dấu tích của Thái sư Lưu Cơ, người đã có công lao rất lớn đối với Hoàng thành Thăng Long.
Lý Nam Đế là vị vua đầu tiên đóng đô ở nơi mà sau này Lý Thái Tổ dời đô đến, nơi trở thành Thăng Long. Năm 621, thành do Đại tổng quản Giao Châu của nhà Đường là Khâu Hòa đắp, gọi là Tử Thành, có chu vi 900 bộ. Kế đó, vào năm 767, Kinh lược sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi đã cho đắp thêm cao hơn, gọi là La Thành.
Năm 791, một quan cai trị khác là Triệu Xương đắp lại kiên cố hơn. Năm 808, Trương Chu đắp thêm một lần nữa... Đến năm 866, Cao Biền đến đây "giữ phủ xưng vương" và đắp thành hoành tráng như đã nói. Nhưng Thành Long Biên của Lý Nam Đế là tiền thân xưa nhất của thành Đại La. Ở thành này, Lý Nam Đế đã dựng cung Vạn Thọ làm nơi triều hội và xây chùa Khai Quốc tồn tại đến ngày nay (nay là chùa Trấn Quốc).
|
Theo Thành Nguyễn