Ξ|Ξ   GIỚI THIỆU ::. NGỌC PHẢ; TỘC PHẢ; PHẢ ĐỒ .
Đăng ngày 28/8/2013
E-mail     Bản in

GIA PHẢ HỌ LƯU THẾ - YÊN BÁI
(LUUTOC.VN) - Ban nghiên cứu Họ Lưu Việt Nam trân trong giới thiệu Gia phả Họ Lưu Thế ở Yên Bái do Ông Trưởng Chi II Lưu Thế Bình, con của Cụ Lưu Thế Sâm (1922 - 1993) cung cấp.

Gia phả Họ Lưu Thế - Yên Bái
PHIÊN ÂM:   BẢN TỘC GIA PHẢ

            Cái văn: Bản tộc chi hữu gia phả, sỡ dĩ thị tử tôn vĩnh viễn chi bất vong dã, phàm ngã bản tông, phiệt duyệt công khanh kỳ cầu phất thế, Tổ công tông đức lũy hàm dư quan, tự tích chi gia phả Lưu tại, lỗ mãng vị đắc kỳ ường, hựu vĩnh cô kinh thời, mặc chỉ tệ liệt hỷ, cẩu bất lược biên, Lưu chi mưu duệ, tắc số thế dĩ hoàn, mang nhiên bất chi tổ khảo, chi sở tự xuất tuy sơ sinh nhất bảng nhi tần việt tương thị, lữ thứ tương đãi, phi phục chương trần chi nghĩa, tại hậu vi thường vô dĩ hận giã hiển dĩ tộc nội tồn đới dư huy, da mông cựu tích, bản xã đệ niên thường tự. Y quan chức sắc, lệ tọa tự đường, mỗi lâm huy nhật, khẩu thuyết mơ hồ, tại ngoại chi chỉ thị, tử tôn hà dĩ quang tiền diệt hậu giã tai, nghi thị bản tộc tề hội, từ đường chí kỳ cô lậu, bỉ lí trần từ, bút trước giản biền, dụng thế phân chi biệt phái, bỉ thử hữu thù, nhi án phả kê đồ, chiêu nhiên nhạn tự, tỉ như hoàng hà chi thủy, vạn phái thiên chi kỳ thủy giao đầu nhất nguyên dã, hận chi tử tôn, vĩnh chi kế thuật, thiên địa trường tồn, ngã chi tông đồ, cầm vĩnh, thị dĩ vi tự

DỊCH NGHĨA:  GIA PHẢ HỌ LƯU

            Từng nghe: Họ thì phải có gia phả, sỡ dĩ có gia phả họ như vậy để con cháu mãi không quên, phàm dòng dõi họ Lưu ta, là dòng Công khanh phiệt duyệt nổi tiếng, cờ cừu không suy lạc mất, công đức của tổ tông đã có nhiều ánh sáng rực rỡ, gia phả từ xưa lưu lại, lỗ mãng chưa được rõ, lại vĩnh cố kinh thời xa lâu, giấy mực đã rách nát mất, nếu không được biên lưu lại cho dòng dõi con cháu thì một số đời trở về thì tất nhiên sẽ không biết được cha, ông xuất phát từ đâu, tuy sơ sinh một bản, mà nhìn nhau như người Tần kẻ Việt xa xôi đối đãi với nhau như khách qua đường. Nếu không khôi phục lại nghĩa Trương Trần, ở đời sau chưa thường di hận vậy, hiềm vì trong họ, còn dải sáng ngời, phần nhiều nhờ tích cũ, bản xã hàng năm thường thờ cũng, áo mũ chức sắc, xếp đặt ngồi ở nhà thờ mỗi khi tới ngày giỗ kỵ, miệng nói mơ hồ, ở ngoài chỉ thị vậy, con cháu làm sao cho sáng rực trước sau vậy. Nếu bản Họ cùng tề tựu họp ở nhà thờ, chi đó có thiếu sót gì, nơi làng xóm tỏ lời, bút viết giản lược, dùng làm gia phả bản họ, khiến cho con cháu đời sau kế thừa kiểu cách lễ đời trước, tuy đời xa phân chia chi phái khác, đó đây có khác biệt mà xét gia phả kế cứu sơ đồ, tự nhiên như Yến nhạn, tỉ như nước Hồng Hà, muôn phái ngàn chi, thoạt kỳ thủy cũng đều cùng một nguồn vậy. Con cháu đời sau, mãi mãi kế thuật tiếp, trời đất trường tồn lâu dài, tông đồ họ Lưu ta như gấm mãi, đó là lời tựa.
                                                                                                                        Bùi Vĩ dịch
PHIÊN ÂM:   XUÂN THU TẾ VĂN
Vị tiền viết: Vị hữu Xuân (Thu) tất cả lễ dã!
Cung duy: Tiên tổ: Phiệt duyệt cao môn, Kỳ cầu lệnh hệ
Vinh doanh một thế, bất vong,
Thịnh đức tại nhân phất thí.
Hiền tướng, danh thần chung cổ tích, tấn thân quan đối truyền giang;
Nhân cơ, nghĩ chỉ dụ hậu côn, Y bản châm anh lịch thế.
                   Cổ chi công đức hiền dương.
                   Kim dã tử tôn thuật kế
Mỗi niệm nhân do hồ tổ, Phụng tiên thì phát vi lương tâm.
Thiết tư thành khả cảm thần, Trung Viễn dương chiêu ư kính ý.
                   Tư thích xuân (thu) thiên,
                   Cung trần triệu tự.
                   Phục vụng giám lân,
                   Tích chi xương xí.
Hiếu tử, giai tông hữu vĩnh, bộ tiên dộ nhi khắc chấn gia thanh.
Văn giai võ liệt vinh thăng, kế phương độc nhì trùng khôi tiên trữ.
                   Miên miên thùy dịch chi phương thanh.
                   Ang áng diễn nhất đường chi phúc lý
                   Thực lại: Tiên Tổ Lặc thành chi hậu trạch dã!
                                  Phục duy thượng hưởng!

DỊCH NGHĨA: VĂN TẾ XUÂN (THU)
                   Đứng trước bàn thờ, vì có tế Xuân (Thu) ất cáo lễ vậy!
                   Cung kính trước tổ tiên: Dòng cửa cao phiệt duyệt,
                                                        Hệ Lệnh tộc cờ cầu.
                   Vinh dự thanh danh, tiên trần thế không quên;
                   Đức thịnh vượng trong lòng người vẫn thế.
Bậc đức tướng võ đức tài, quan văn giới, tích thủy chung tiến thân cân đai, áo mũ truyền nhà.
Nền nhân đạo, di chỉ chĩa, vun đắp đời sau, dòng y bát chân anh tong trải thế hệ
                   Công đức xưa nổi rõ, dương cao;
                   Con cháu nay tiếp tục thuật kế.
Nỗi niềm người nhớ tổ tiên trước, vâng trước mũi tên phát tự lòng mình.
Thiết nghĩ lòng thành đáng cảm thần, tuy tìm xa dương chiến về kinh ý.
                        Nay găp ngày xuân (thu).
                   Kính bày lễ tế.
                   Xin về chứng giám lòng thành.
                   Ban thưởng cho thịnh già trẻ.
Con hiếu, cháu hiền còn mãi, bước theo cha ông trước làm nổi danh nhà.
Văn tài, võ giỏi, vinh thăng, nối đuốc thơm khôi phục nền tình, lý.
                   Nối dài hiển hách danh thơm.
                   Ang áng nỗi nhà phúc quế.
Thực là nhờ: Tổ tiên đức trạch dày đúc nên, kính xin về hưởng lễ!
Các vị quận công tiên liệt, có nhiều công đức với dân, ngày giỗ hàng năm, bản xã tới tế vông biên lệ.
          Mỹ tự chữ đẹp cùng thể văn các bậc tôn công, kể như sau:
Giỗ ngày 18/3: Dám xin chiếu cáo cùng.
Tôn công: Hết lòng tiết nghĩa, ra sức đôn hậu là bậc công thần sáng nghĩa, đặc biệt được tiến phong là bậc Thượng tướng quân giúp nước, Trà Quận công, phong tặng thêm là Thái phó Đại Tư mã, Trình Quốc Công, Lưu tướng công tên chữ là Thế Tán, tên thụy khi mất là Trung Thiền tiên sinh, cùng các bà vợ….
Trước bàn thời, ngày giỗ lại về, ắt xin cáo lễ vật cung kính trước tôn công
(thể văn xem sau)
Giỗ ngày 25/9: Dám xin chiếu cùng.
Tôn công : bậc công thần hết lòng tiết nghĩa, ra sức mình dông quân, tả đô đốc, Phương Quận Công, Lưu tướng công tên chữ là Thế Chí, tên thụy khi mất là Đức Phùng tiên sinh, cùng bà vợ…
Trước bàn thờ: ngày giỗ đã về, ất xin cáo lễ.
Cung kính tôn công (thể văn)
Ngày giỗ 25/5: Dám xin cáo cùng.
Tôn công: bậc công thần dương cao oai võ dũng, tham tán việc trị nước, được đặc biệt tiến phong là bậc thượng tướng quân giúp nước, kim ngô vệ thự vệ sự, cẩm đường hầu tước Lưu tướng công, Lưu Thế Trân tên chữ là Huệ Ân, tên thụy khi mất là Đức Vi tiên sinh cùng vợ….

PHIÊN ÂM: Vị tiền viết: Húy nhật phúc lâm
                                      Tờ cáo lễ dã
          Cung duy: Tôn công: Hổ báo kỳ thao,
                           Hùng hùng kinh khí.
Hồng huân cao vũ trụ, thanh danh phi trước ư đương thời,
Ân trạch biến xã dân, phúc khánh trường Lưu ư hậu thế.
                   Tư nhân húy nhật phúc lâm,
                   Cẩm dụng phi nghi chí tế.
                   Phục nguyện: lai hưởng lai lâm.
                   Tích dĩ: tì xương tì xí.
Thực lại: tôn công chi phù hựu đã, phục duy thượng hưởng

DỊCH NGHĨA: Đứng trước bàn thờ: ngày giỗ đã về
                                                       kính xin cáo lễ
          Cung kính cùng Tôn Công: Hổ báo lược thao kỳ,
                                                   Gấu hùm kinh khí quý.
          Công huấn lớn cao cùng vũ trụ, tiếng thơm lớn nổi với đương thời.
          Ôn trạch dan biến khắp xã dân, mưng phúc Lưu đài cùng hậu thế.
Nay nhân ngày giỗ về.
Kính xin ngày lễ tế
Kính xin: Tổ tiên về, hưởng lễ lòng thành,
Tích vì việc vinh xương thế hệ
Thực là nhờ: sự phù hộ của Tôn Công, kính xin hưởng lễ.

 
 
VĂN SẮC PHONG CỦA CÁC QUẬN CÔNG
 
PHIÊN ÂM: Lưu Thế Tán trà quận công cố sắc.
Sắc gia tặng Thái phó Trình quốc công, văn bách thạch cung, chấp thiên quân nổ, khiết hán tướng cẩm vân chi hội, trúc bạch công danh, hiệu chu thần lương Võ Chi Năng. Cân thường sự nghiệp, tại tích kế trương vỹ tích, tứ kim tải cử Thịnh văn, vi cải chí chính thủy, ưng gia phon đại tư mã chức, khả gia phong đại tư mã, thái phó trình quốc công cố sắc.
Đức Long nguyên niên, ngũ nguyệt, sơ lục nhật
(Thần tông uyên hoàng đế kính tông chi tử)
DỊCH NGHĨA: Sắc phong của trà Quận công Lưu Thế Tán.
Sắc tặng thêm Thái phó Trình Quốc Công, nâng cung nặng trăm thạch, cầm nỏ ngàn cân như tướng Võ Thanh Khiết nhà hán, gặp hội gió nắng, công danh chép trong bảo sách trúc bạch, như văn thần hiệu quả, nhà Chu có tài năng lương võ. Sự nghiệp cân thường lớn lao, thời xưa đã nêu về sự tích lớn. Tới nay chuyển tải thịnh văn, vì bắt đầu đổi niên hiệu chính kỷ, nên phong thêm là chức Đại tư mà Thái phó Trịnh Quốc Công, cho nên có sắc phong này.
Ngày mùng 6 tháng năm Đức Long nguyên niên đầu năm 1629.
(Tức thời Thần Tông Uyên Hoàng đế, con vua Lê Kính Tông) Duy tân là Duy Kỳ làm vua từ 1619 – 1643.
                                                                                                Bùi Vỹ dịch, chú thích
 
CÁC SẮC PHONG CỦA QUẬN CÔNG PHƯƠNG LƯU THẾ TÁN
(Cộng 4 đạo)

1.       PHIÊN ÂM: thuận thiên thừa vận, Hoàng đế chế viết: Trần duy bạt loạn trắc tích hoàn đô, ký đại chung hưng chi nghiệp, phát trước, xuất lộc thường vị, cửu tinh ngoại lực chi hiền, Cốc đán tải xúc, chi huân tứ hà, Minh nghĩa yết tiết tuyên lực công thần. Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân kim ngô vệ đô chỉ huy sứ, tư đo chỉ huy sứ, thự vệ sự phương quốc hầu. Trụ quốc trung trật, Lưu Thế Tán, thỉ hồ tráng sỹ, Trâm viện bút truyền, mãi phụ niệm xã tắc yên, Thần tận thần chức, nhì cung thể thao lược thụ trường xuất tướng môn, khắc gia tố trước ư mông hanh tòng sự cách hàm ư khôn mỹ, nhập vệ nội vì tâm phúc, bội  báo vĩ, thủ hổ quan xuất chinh ngoại tắc trảo nha, tấu hùng uy, trạch yến lũy, tại nhĩ kí đa phi tích vi di hề lãn hang ân, thị dụng thụy được hoàn, vãn hoa chu quyến. Vu dĩ Hoàng hoán tương, vu dĩ biểu sư trình, ư hi, bao thưởng công thần, ngã kí giữ đồng phú kí, hậu bổ vương thất, nhĩ kì vĩnh bảo huân, danh vi đô tướng thái úy Trưởng quốc công Trịnh Tùng Đẳng, lũy thảo đặc hữu công hữu triều thần kim nghị ưng. Thăng quận công tước, khả thông minh nghĩa yết tiết tuyên lực công thần, đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, kim ngô vệ, đô chỉ huy sứ, thự vệ sự, phương quận công, trụ quốc, thượng trật.
Quan Hưng thập bát niên, nhị nguyệt, nhị thập tam
(Thế Tông nghị Hoàng Đế)

DỊCH NGHĨA: Thuận theo lẽ trời: thừa hành vận mệnh, nhà vua chế viết rằng: “Trẫm chỉ vì dẹp loạn từ lập tích trở về kinh đô, đã là sự nghiệp đại trung hưng, phát ra trước vị, xuất bổng lộc yếu thứ, sự tài giỏi đức độ ở ngoài sức chịu tinh (hệ sao Thái dương). một sớm vận chuyển gặp gỡ, luân thường tốt đẹp ban khắc, sáng tiết nghĩa, bậc công thần hết lòng tiết nghĩa, ra sức mình được đặc biệt tiến phong là bậc thượng tướng quân giúp nước kim ngô vệ, đô chỉ huy sứ, Ty đô chỉ huy sứ, thự vệ sự, Phương quế Hầu tước, Phẩm trậ bậc Trung, trụ cột đất nước, Lưu Thế Tán tráng sỹ hồ thỉ cung tên, trâm viện, bút truyền, cha người 1 niềm yên xã tắc, bậc bày tôi làm hết chức trách, kẻ bề tôi người cung kính nhận thao lược ở đời, Tướng ra nơi cửa tướng, khắc nhà vốn nổi tiếng, ơn thông hạnh, tòng sự nghiệp bao hàm nơi tốt đẹp vào trong vệ nội làm bậc tâm phúc, bội đuôi báo, giữ cửa hùm, xuất chính ngoài biên là bậc nanh vuốt, đấu voi gấu, nhổ lũy yến ở những nơi đó có nhiều sự tích, phi thường, đối với ta lẫn sao được với ơn lớn, đó là điều rực rỡ Ngu Hoàn yên ổn lớn, cuốn sách nhà Chu Hoa muộn, với dùng lớn lao thay đổi, với dùng biểu dương trong sáng của quân, ô hộ! Khen thưởng công thần, ta đã cũng giầu sang phú quý, Hậu bổ vương thấp triều đình, nhà người mãi giữ vững huân danh đó là vì Đô tướng Thái úy Trưởng Quốc tên Trịnh Tùng…nhiều lần đánh giặc có công, xứng đáng thăng là bậc công thần sáng nghĩa hết lòng tiết tháo ra sức mình được đặc biệt tiến thăng là bậc thượng tướng quân giúp nước, Kin ngô vệ, đô chỉ huy sứ thự về sự vương quận công bậc thượng trật trụ cột của nước
          Ngày 23 tháng 2 năm Quang Hưng thứ 18 (1595)
                   (Thế Công Nghị Hoàng Đế)

2.       PHIÊN ÂM: Sắc minh nghĩa yết tiết, tuyển lực công thần, đặc tiến phụ quốc, Thượng tướng quân, kim ngô vệ, đô chỉ huy sứ, thự vệ sự Phượng quận công trụ quốc thượng trật Lưu Thế Tán, vi đô nguyên soái tổng quốc chính thượng phụ bình An vương loại tòng quân nhật cửu, hữu công, hữu triều thần Vinh quốc công Hoàng đình ái kiêm nghị, ung thăng đô đốc kiêm sự chức, khả vi minh nghĩa, yết tiết, tuyên lực công thần, đắc tiến phụ quốc thượng tướng quân đô đốc phủ dô đốc kim sự Phượng Quận Công, trụ quốc thượng trật, cố sắc.
          Hoàng định tứ niên, thập nhất nguyệt, sơ nhất nhật
          (kính tông Huệ Hoàng Đế, thế tông chỉ tử hựu cải vĩnh tổ)

DỊCH NGHĨA: Sắc phong cho bậc công thần sáng nghĩa hết lòng tiết tháo ra sức mình, được đặc biệt tiến phong là thượng tướng quân giúp nước, Kim ngô vệ, Đô chỉ huy sứ, coi ti đô chỉ huy sứ, thự vệ sự, Quận công Phương, bậc thượng trật, trụ cột đất nước, Lưu Thế Tán, vì đô nguyên tổng quốc chính tượng phụ bình an vương (1) đô theo quân lai ngày, có công, có triều vinh quốc công Hoàng Đình Ái bàn bạc, nên thăng đô đốc kiêm sự chức, xứng đáng là bậc công thần sáng nghĩa, hết lòng tiết tháo, ra sức mình, đặc biệt được tiến phong bậc thượng tướng quân giúp nước, Đô đốc Phủ Bắc quân, đô đốc kiêm sự, quận công Phương, bậc thượng trật, trụ cột đất nước, cho nên có sắc phong này.
          Ngày 01 tháng 11 năm Hoàng Định thứ tư 1603.
          (Vua kính tông Huệ Hoàng Đế con vua Lê Thế Tông lại đổi Vĩnh Tộ)

3.       Chú thích:  (1) Cùng nội dung trên đây ngày 5 tháng 2 năm Hoàng Định thứ năm 1604 ban cùng một sắc phong nữa Lưu Thế Tán Quận công Phương – Bình An vương, chúa Trịnh Tùng 1570 – 1623

4.       PHIÊN ÂM: sắc gia tặng đô đốc, Phương quận công, quán thân cự tộc, sài chiến cao môn văn võ tố giảng ư gia đình, tức Chu Thế Tướng, phúc khánh vũ thùy ư miên duệ, Huyền Hán Tông thần, tích thời ký trước lệnh danh dự nhật tải, kê thịnh điển, vi cảI kỷ chính thủy, ưng gia phong tả đô đốc chức, khả gia phong tả đô đốc Phương quận công cố sắc.
          Đức Long nguyên niên, ngũ nguyệt sở lục nhật
DỊCH NGHĨA: sắc tặng thêm cho đô đốc quận công vốn dòng họ lớn, tong chiến đấu ở cửa lớn. Văn võ được giảng dạy ở trong gia đình, như tướng thế nhà Chu, phúc mừng mãi truyền ở dòng dõi con cháu treo cao thế thần dòng nhà Hán, thời xưa đã nổi danh lừng lẫy, ngày vận chuyển đó, kê cứu điển tích thời thịnh vượng, vi đổi kỷ nguyên chính trị bắt đầu nên phong thêm chức tả đô đốc, xứng đang phong thêm: Tả đô đốc Phương Quận Công, cho nên có sắc phong này.
          Ngày mồng 6 tháng 5 năm đầu Đức Long 1629. Lê Duy Kỳ
         
 BA ĐẠO SẮC VỀ LƯU THẾ CHÂN, Cẩm đường hầu tước.

1.       PHIÊN ÂM:  Sắc đặc tiến phụ quốc, Thượng tướng quân kim ngô vệ đô chỉ huy sứ, tỷ đô chỉ huy sứ, Cẩm đường hầu, trụ quốc, trung trật, Lưu Thế Chân vi đô nguyên soái tông quốc chính, thanh đô vương, loại tủy phù nghĩa danh hữu sự nhật năng phù giá, định tiến phát tùy chinh hữu công, hữu triều thần kiêm nghị, ưng thăng hữu hiện điểm chức, khả vi đắc tiến phụ quốc thượng tướng quân điện tiền ti đô hiệu điểm, hữu điểm hiệu Cẩm đường hậu trụ quốc, trung trật, cố sắc.
          Vĩnh Tộ lục niên, thập nhất nguyệt, thập nhị nhật
DỊCH NGHĨA: Sắc đặc biệt tiến phong cho bậc thượng tướng quân giúp nước bảo vệ Kim ngo, đô chỉ huy sứ, Cẩm đường hầu tước phẩm trật bậc trung, trụ cột của đất nước là Lưu Thế Chân vì đã từng theo đô nguyên soái thống quốc chính thanh đô vương (1) loại tùy phò nghĩa doanh, ngày có sự việc có tài năng phò giá xe kiệu quay tiến phắt đi theo chinh phạt, có công, có triều thần bàn bạc nên thăng chức hữu điểm Hiệu, xứng đáng phong đặc biệt là bậc thượng tướng quân giúp nước, diện tiến đô điểm Hiệu ty, hiểu đi điểm hiệu, Cẩm đường hầu tước, Phẩm trật bậc trung, trụ cột đất nước, cho nên có sắc phong này.
          Ngày 12 tháng 11 năm Vĩnh Tộ thứ 6 – 1624. Lê Duy Kỳ
(1)             Chúa Trịnh Tráng 1623 – 1657

2.       PHIÊN ÂM: Sắc đặc biệt tiến phụ quốc thượng tướng quân, điện tiền đô hiệu điểm, ty hữu hiệu điểm, Cẩm đường hầu, trụ quốc, trung trật Lưu Thế Chân, vị nguyên soái thống quốc chính, thanh đỗ vương, loại sai vãng Lạng Sơn, cao bình địa phương, Công sào mạc nghiệt, năng dụng công phá nguy hào lũy các xé, thu đắc ngụy địa lôi, phục hàm, trảng đắc ngụy quốc cầm đắc ngụy phù, thu đắc tạ mã sát khí giới hữu công, hữu triều thần kiêm nghi, ưng thăng chức, khả vi đặc tiến phụ thượng tướng quân, diện điềm đô hiệu điểm, ty tả hiệu điểm, cẩm đường hầu, trụ quốc trung trật, cố sắc.
          Vĩnh Tộ bát niên, nhị nguyệt, thập tam nhất.

DỊCH NGHĨA: Sắc đặc biệt tiến phong cho bậc thượng tướng quân giúp nước. điện tiền đô hiệu điểm, ty hữu hiệu điểm Cẩm Đường hầu tước phẩm trật bậc trung, trụ cột đất nước, Lưu Thế Chân, vì đã theo đô nguyên soái thống quốc chính, thanh dô vương (1) loại sai phái Lạng Sơn, cao bình các địa phương, công phá sào huyệt giặc Mạc, có tài năng dụng công phá được hào lũy các xứ, thu được ngựa, khí giới giặc, có công lao, có triều thần bàn bạc, nên, thăng chức xứng đáng đặc biệt tiên phong là thượng tướng quân giúp nước, điện tiến đô hiệu điểm tuy tả hiệu điểm, Cẩm đường hầu tước, Phẩm trật bậc trung, trụ cột đất nước, cho nên có sắc phong này.
          Ngày 13 tháng 2 năm Vĩnh Tộ thứ tám 1626. Lê Duy Kỳ
(1)             Chúa Trịnh Tráng 1623 – 1657

3.       PHIÊN ÂM: Sắc phong võ uy dũng, tán trị công thần, đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, điện tiền đô hiệu điểm, ty tả hiệu điểm Cảm đường hầu, trụ quốc, trung trật, Lưu Thế Chân, vi nguyên soái thống quốc chính, thanh đô vương loại vi quý hợi niên, năng tùy quân phò mã, tiến phát thảo tặc, các xứ toàn công, hữu triều thần kiêm nghị, ưng bình công gia thăng thự vệ chức, khả vi đương võ oai dũng tán trị công thần, đắc tiến phụ quốc, thượng tướng quân, kim ngô vệ, đô chỉ huy sứ, ty đô chỉ huy sứ Thự vệ sự, Cẩm đường hầu, trị quốc, trung trật, cố sắc.
          Đức Long nguyên niên, cửu nguyệt, nhị thập tứ nhật.

DỊCH NGHĨA: Sắc phong cho bậc công thần, dương cao oai võ dũng cảm, tham tán việc trị bình đất nước. Được đặc biệt tiến phong là bậc thượng tướng quân giúp nước, điện tiền đô hiệu ty tả đô hiệu điểm Cẩm đường hầu tước, phẩm trật bậc trung, trụ cột đất nước, Lưu Thế Chân vì đã từng theo nguyên soái thống quốc chính Thanh đô vương, vào năn Quý Hợi (1) tài năng đi theo quân, phò giá xe kiệu, tiến phát dẹp giặc, các xứ toàn công, có các triều thần vàn bạc nên bình công, thăng thêm chức thự vệ, xứng đáng là bậc công thần dương cao võ nghệ oai dũng cảm, tham tán việc trị bình đất nước, đặc biệt tiến phong bậc thượng tướng quân giúp nước, kiêm ngô vệ đô chỉ huy sứ, ty đô chỉ huy sứ, thự vệ sự Cẩm đường hầu tước phẩm trật bậc trung, trụ cột đất nước cho nên có sắc phong này
          Ngày 24 tháng 9 năm Đức Long đầu 1629. Lê Duy Kỳ.

1.       PHIÊN ÂM: Lưu Thế Canh dương quận công cố sắc
                   (Sở kiếm tam đạo, tôn thất lạc bất kê)
          Sắc oai liệt tướng quân, Cẩm y vệ, đô chỉ huy sứ, ty đo chỉ huy sứ, lâm đình Hầu, trung trật, Lưu Thế Canh, vi thượng niên tùy phong, tùy sai phái tảo trừ Quảng thuận cùng khấu đắng tất, năng dụng mệnh phấn lực phú tắt, tiên đăng chiến trận hữu công, lỹ kinh khải chuẩn, hữu triều kim nghị, ưng gia thăng nhị thử tả hiệu điểm chức, khả vi võ huân tướng quân, Cẩm y vệ, điện tiền lô hiệu điểm, ty tả hiệu điểm, Lân Đình Hầu, trung trật, cố sắc
          Thình đức ngũ niên, thập nhất nguyệt, nhị thập nhất nhật
          (Thần tông kỷ nguyên, thịnh đức Hựu cải Vĩnh Thọ)

DỊCH NGHĨA: Các sắc phong Dương quận công Lưu Thế Canh.
                   (Vốn thấy được 3 đạo sắc phong, còn thất lạc không kể)
Sắc phong cho bậc tướng quân anh liệt,vệ quân áo gấm, đô chỉ huy sứ, ty đô chỉ huy sứ, Lâm Đình Hầu tước, phẩm trật bậc trung Lưu Thế Canh, vì năm trước đi theo phụng vâng việc sai phái tảo trừ đánh dẹp bọn giặc cuống Thuận Quảng… tài năng dùng mệnh lệnh ra sức phá giặc, lên trước chiến trận, có công, đã từng có khải cho phép, có triều thần bàn bạc nên thăng thêm nhị thứ chức tả hiệu điểm, xứng đáng là bậc tướng có huân công võ nghệ, vệ quân áo gấm, điện tiền đô hiệu điểm, ty tả hiệu điểm, Lân đình hầu tước, phẩm trật bậc trung, cho nên có sắc phong này
          Ngày 27 tháng 11 năm Thịnh Đức thứ năm 1657.
          (Kỷ nguyên thần tông, Thịnh Đức lại đổi Vĩnh Thọ). Lê Duy Kỳ.

PHIÊN ÂM: Sắc đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, điện tiến đô hiệu điểm, ty tả hiệu điểm, Lân Đình hầu, trụ quốc trung trật Lưu Thế Canh, vì dĩ cựu thần cập thảo lạc hữu công, dĩ kinh chỉ chuẩn, hiểu triều thần kim nghị, ưng thăng thự vệ chức, khả vi đặc tiện phụ quốc thượng tướng quân, cẩm y vệ, đô chỉ huy sứ, ty đô huy sứ, thự vệ sự Lâm Đình Hầu, trụ quốc, trung trật, cố sắc.
          Vĩnh Thọ nguyên niên, nhị nguyệt, nhị thập tam nhật

DỊCH NGHĨA: Sắc đặc biệt tiến phong cho bậc thượng tướng quân giúp nước, điện tiền đô hiệu điểm, ty tả hiệu điểm, Lân đình hầu tước, phẩm trật bậc trung, bậc trụ cột đất nước Lưu Thế Canh, vì là bậc cựu thần và đI dẹp giặc có công, đã có sắc chỉ cho phép, có triều thần bàn bạc, nên thăng chức thự vệ, xứng đáng tiên phong là bậc thượng tướng quân giúp nước, vệ quân áo gấm, đô chỉ huy sứ, ty đô chỉ huy sứ, ty đô chỉ huy sứ, thự vệ sự Lân Đình Hầu tước, trụ cột đất nước, phẩm trật, bậc trung cho nên có sắc phong này.
          Ngày 23 tháng 2 năm đầu Vĩnh Thọ 1658. Lê Duy Kỳ.

PHIÊN ÂM: Sắc đặc tiến phu quốc thượng tướng quân, cẩm vệ y đô chỉ huy sứ ty đô chỉ huy sứ, thự vệ Lân Đình Hậu, trụ quốc trung trật, Lưu Thế Canh, vi nguyên soái Chưởng quốc chính, Tây Định Vương, chỉ chuẩn phụng sai, thống lĩnh quan phủ trị Nghệ An xứ, tá quốc doanh phó đô tướng, thái phó phú quốc công Trịnh Căn loại thuộc sai, năng dụng mệnh công phá giặc đề hữu công, dĩ kinh luận bá, ưng gia thăng nhất thứ, tham đốc chức, khả vi đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, tham đô đốc thần vũ, tứ vệ quân vụ sự Lân Đình Hầu, trụ quốc, trung trật, cố sắc.
          Vĩnh Thọ, nguyên niên, bát nguyệt, nhị thập tứ nhật.
DỊCH NGHĨA: Sắc đặc tiến phong cho bậc thượng tướng quân giúp nước, vệ quân áo gấm, đô chỉ huy sứ, thự vệ sự Lân Đình Hầu tước, trụ cột đất nước, phẩm trật bậc trung, Lưu Thế Canh, vì nguyên soái tổng quốc Chính Tây định vương (1) đã có chỉ cho phép vâng sai thống lĩnh quân phủ trị xứ Nghệ An, phò tá quân doanh nước, phó đô tướng thái phó, Phú Quốc Công, Trịnh Căn thuộc loại sai phái, có tài năng dùng mệnh lệnh, công phá giặc có công…đã có bàn bạc nên thăng thêm một cấp bậc, chức Thám đốc, xứng đáng là bậc thượng tướng quân, giúp nước, tham đốc việc quân vụ bốn vệ thần võ, Lân Đình Hầu tước, trụ cột đất nước, phẩm trật bậc trung, cho nên có sắc phong này.
          Ngày 24 tháng 8 năm đầu Vĩnh Thọ 1658. Lê Duy Kỳ.
(1)              Trịnh Tạc 1657 – 1682
Sao hệ nguyên bản này giao cho Trưởng tộc Lưu Thế Cường giữ gìn
          Ngày tố, mùa thu tháng 7 Kỷ mùi triều Khải Định 1919
                   Lưu Văn Trứ Hoàng Trung vâng chép
Chuyên viên Hán Nôm – Trưởng phòng Địa chí TVKH Bùi Vĩ dịch chú thích.
 
SƠ ĐỒ GIA PHẢ HỌ LƯU Ở CHÂN BÁI
Các đời
1.     Vĩnh Thế Tổ: Phúc Tâm sinh 3 con trai, ông cả Thế Tổ (Phúc Đạo), Tháp (Phúc Giáo), Kinh (Phúc Tĩnh).
2.     Thế Cô: Sinh 4 con trai: ông Kiệt (Phúc Chính), Tân (Phúc Lương), Đằng (Phúc Thiện), Kỳ (Phúc Thuật)
3.     Thế Đằng: Phúc Thiện sinh 3 người con trai: Bị (Trúc Sơn), Lương (Phúc Nguyên), Thế Tán, trà quận công thái phó đại tư mã.
4.     Thế Tán: Trung Thần tiên sinh Trịnh Quốc Công kỵ 18/3 vợ Từ Tâm, Từ Nhiên, sinh Thế Trí Phương quận công
5.     Thế Trí:  Đông quân tả đô đốc, Đức Phùng kỵ 20/9 vợ Từ Diên, Từ Hân, sinh 2 con trai Phúc Trịnh, Thế Chân
6.     Thế Chân: Cẩm Đường Hầu, tự Phúc Ân dức tiên sinh, kỵ 25/7 vợ Từ Thuận, sinh Thế Canh, Thế Quý, Thế Thạc.
7.     Thế Thạc: Ninh Thái Tử, trang thiên, An chính kỵ 28/6 vợ Trịnh Khiết sinh Thế Diệp, tri phủ Thanh Hà
8.     Thế Diệp: Thuần Hậu trung nghĩa phủ quân kỵ 21/9 vợ là Minh Đạo kỵ 28/10, Từ Đệ kỵ 16/2 sinh 2 trai hiệu Thế Tư
9.     Thế Tư: Khoan trực phủ quân kỵ 25/4, vợ Trịnh Khiết kỵ 26/3, sinh trai Phúc Độ, 3 gái: Phúc kỵ 15/3, Thảnh Kỵ 16/8, Lý kỵ…
10.                         Phúc Độ:  kỵ 27/9, vợ Hà Thị Ân kỵ 1/4 sinh 4 trai, 2 gái. Thế Ninh kỵ 9/3, Trung Dũng quyền hành xã trưởng kỵ 6/3 sinh 4 trai, Trung nghiễm thần sách quân đội trưởng kỵ 10/4 (hậu cho giáp Yên Đông thờ), Phúc Trân sinh 4 trai 3 gái
11.         - Trung dũng quyền hành xã trưởng thập lý hầu, sinh 4 trai, giỗ 6/3: Thế Giám, Thế Châu, Thế Ưu, Thế Bao
-    Phúc Trân: giữ chức thanh thành đạo trung dực doanh hùng úy huyện Ngọc nam sinh 4 trai 3 gái.
 
4 trai:    Đức Nghĩa, Thế Quan, Phúc Vọng, Phúc Tính
3 gái:    Thanh, Kính, Thính
 
PHIÊN ÂM: QUẬN CÔNG LƯU THẾ TÁN MIẾU KÝ
          Công Tính Lưu, húy Tán, An đông giáp nhân dã, kỳ lực dũng quán tam quân, lê đế văn như triệu dung ư Thiên Hựu, Chính Trị niên gian phụng mệnh tiến thảo mạc tặc, lũy lập chiến công, kinh thăng, yết tiết tuyên lực đông hậu minh nghĩa công thần đặc tiến, phụng quốc thượng tướng quân Trà Quận Công, công tại quan thời đa, mọi điền trạch cấp hỷ bản giáp dĩ vi công lợi, một hậu bản giáp xã đệ niên thế chí ký điền như nghi đãI chí Đức Long nguyên niên lê đế truy niệm công thần gia tặng thái phó đại tư mã Trình Quốc Công, mệnh dân lập miếu phụng tự, tự Hậu giáp xã, nhật tăng phúc thịnh Hữu đao vân
                             “Nhất vui ba chén An Đông
                             Vì nhờ có Đức Quốc Công hộ trì”
          Cái công chi mặc tướng âm phù linh thanh, hiển hách hình chi nhân ngôn dã, tắc dục ẩm Hà ân Nguyên, phan lê ân điền tử dương vĩnh phảI phất hiện đã cẩn then sở văng trần từ bái ký.
          Cảnh Trị tứ nguyên, Đông thập nguyệt, cát nhập lập Quý văn
DỊCH NGHĨA:  CHI MIẾU QUẬN CÔNG LƯU THẾ TÁN
Ông họ Lưu tên húy là Tán, người giáp An Đông, sức của ông đứng đầu 3 quân, vua Lê nghe tiếng triệu dùng suy vào năm thiên Hựu chính trị (1557 - 1571) vâng lệnh tiến đến đánh giặc Mạc, nhiều lần lập chiến công trẫm thăng là bậc thượng tướng quân, giúp nước, Trà Quận Công, trong thời làm quan ấy ông mua nhiều ruộng đất cấp cho dân bản giáp An Đông làm lợi ích chung sau khi ông mất, bản giáp xã An sơn đông hàng năm đến tế cúng như nghi lễ quy định, đến năm đầu Đức Long 1629 Vua Lê truy tặng công thần tặng phong thêm là Thái phó Đại tư mã Trình Quốc Công, sai dân lập miếu phụng thờ sau đó xã ngày càng tăng phúc thịnh nên có ca dao viết:
                             “Nhất vui ba xóm An Đông
                             Vì nhờ có Đức Quốc Công hộ trì”
          Có lẽ sự ngầm phò giúp của ông linh thiêng, hiển hách như mọi người đã nói: uống nguồn ơn sông, ăn cơm nhà Lê ruộng đất mãi còn xin kính thuật những điều vốn biết trong bài đền kỳ thờ ông.
          Ngày lành tháng 10 Đông, năm Cảnh Trị thứ tư 1666  dựng văn bia.
                                                (Lê Duy Vũ, Huyền Tông)
Chuyên viên Hán Nôm – Trưởng phòng Địa chí Bùi Vĩ dịch, chú thích:
 
BẢN GIA PHẢ ĐÃ PHIÊN DỊCH:
Tôi căn cứ theo sự giáo huấn của thân phụ và gia tộc, tôi đã viết và đọc từ năm 1938 trong các dịp tế lễ tổ tiên. Có 1 vài chỗ lệch lạc.
1.     Đời thứ 4: Cụ Lưu Thế Tán - Sính Quốc Công (có chữ Hán kèm theo nhưng nay ông đã mất không có ai viết lại được)
Phiên âm: Trình Quốc Công
2.     Đời thứ 5: Lưu Thế Chí – Phương Quận Công (có chữ Hán kèm theo nhưng nay ông đã mất không có ai viết lại được) phiên âm: Lưu Thế Tán
3.     Đời thứ 8: Lưu Thế Hoa


PHIÊN ÂM: Lưu Thế Diệp
Ngày 10 tháng 2 năm Quý Dậu (Xuân 1993)
Cháu đời thứ 15: Cụ Lưu Thế Sâm 71 tuổi (1922 - 1993)

(tạ thế ngày 04/12/1993 tức 21/10 năm Quý Dậu).
 

 
LƯU THẾ BÌNH Trưởng Chi II Họ Lưu Thế - Yên Bái


Gửi ý kiến của bạn
(Xin hãy viết chữ có dấu! Xin cảm ơn!)