Ξ|Ξ   GƯƠNG SÁNG ::. DANH NHÂN LƯU TỘC.
Đăng ngày 21/2/2022
E-mail     Bản in

Tìm hiểu về Thái sư Lưu Cơ - Người có nhiều công trạng đối với các triều đại: nhà Đinh, Tiền Lê và nhà Lý
Theo gia phả ghi năm 1138, Lưu Cơ thuộc dòng họ Lưu "Yên Định xứ Hoan Châu", vùng đất Yên Định, tổng Phù Lưu, huyện Thiên Lộc (Cố Đô của bộ Việt Thường xưa, sau đổi thành huyện Can Lộc), nay thuộc thôn Yên Định, xã Thịnh Lộc và xã Phù Lưu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Thuỷ tổ Nguyên sơ của dòng họ là Lưu quý công huý Quang Lang (Lưu Quang Lang), sinh ra Lưu quý công huý Kỳ (Lưu Kỳ). Triệu tổ Lưu Kỳ lấy bà Chính thất Lê quý thị huý Lao, thụy Hinh Phương đã cùng các em Lưu Điền, Lưu Khải, Lưu Nghiệp chuyển đến sinh cơ lập nghiệp tại động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, nay là huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
  Hai cụ hiếm muộn nhiều năm không có con nên tìm đến xứ Bồ Bát, xã Bạch Liên, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình để cầu tự Bạch Bát sơn thần và sinh ra Khải tổ Lưu Cơ vào giờ Dần, ngày mồng 3 tháng Giêng năm Canh Tí (940) tại trang Tri Hối (nay là thôn Tuy Hối, xã Gia Tân, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình).

          Năm 20 tuổi, sau khi đoạn tang cả cha và mẹ, ngài Lưu Cơ đã gia nhập khởi nghĩa của Đinh Bộ Lĩnh tại động Hoa Lư và trở thành một trong tứ trụ của nghĩa quân (Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ và Trịnh Tú) đã bình định 12 sứ quân lập nên nước Đại Cồ Việt (nhà nước độc lập, tự chủ đầu tiên của Việt Nam) của Nhà Đinh với việc xưng đế của Đinh Tiên Hoàng vào năm 968.

          Thời nhà Đinh, Tiền Lê được sách sử ghi rất kiệm lời, chỉ nhắc đến các danh nhân vẻn vẹn vài từ, như năm 971 Toàn thư ghi: "Mới định ra giai phẩm...Cho Nguyễn Bặc làm Định Quốc Công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ Sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân...", trong khi đó Việt sử lược ghi: "Lấy Lưu Mỗ (Lưu Cơ) làm Thái sư Đô hộ phủ, Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân...". Tuy chỉ ít như vậy nhưng rất là trân quý.

          Trong những năm gần đây, nhất là dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, các nhà khoa học, chuyên gia và các nhà nghiên cứu chuyên ngành, trong đó có Hội đồng Lưu Tộc Việt Nam đã nghiên cứu bổ sung và tổng hợp tư liệu sâu hơn. Nhờ đó khẳngđịnh những công lao đóng góp của Thái sư Đô hộ phủ Lưu Cơ. Hiện nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Hội đồng Lưu Tộc Việt Nam đang phối hợp tổ chức Hội thảo "Vai trò lịch sử của danh nhân Lưu Cơ", dự kiến vào đầu năm 2022.

         

Thái sư Lưu Cơ - Ảnh minh họa

Sự nghiệp, vai trò lịch sử và công tích của vị khai quốc công thần Lưu Cơ gắn với 3 sự kiện quan trọng của ba triều đại: nhà Đinh, Tiền Lê và nhà Lý. Thứ nhất là công lao giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nước Đại Cồ Việt, nhà nước phong kiến độc lập, tự chủ đầu tiên của nước ta từ thế kỷ X. Điển hình là Tướng quân Lưu Cơ được Đinh Bộ Lĩnh cử quản lĩnh 3.000 binh mã đóng quân tại trang Đại Từ, huyện Tế Giang, phủ Thuận An, Vũ Ninh (nay là thôn Đại Từ, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên). Dân làng Đại Từ đã ủng hộ, theo Lưu Cơ bình định sứ quân Lý Lãng Công (Lý Khuê), cát cứ tại huyện Siêu Loại, nay là Thuận Thành, Bắc Ninh. Sau này Ngài đã ban đất quan điền cho dân làng Đại Từ. Lý lịch di tích cấp tỉnh đình Đại Từ và đình phả đã bổ sung cho chính sử về chiến công này.

          Thứ hai là Lưu Cơ là vị quan đầu triều trông coi hình án, được đánh giá vai trò của một Phó Vương. Khi Đinh Bộ Lĩnh xưng đế vẫn giữ tên "Đô hộ phủ" của thành Đại La. Vì vậy, khi Lưu Cơ được giao làm Đô hộ phủ, nhiều người dễ nghĩ đó vẫn là An Nam Đô hộ phủ thời Bắc thuộc cho nên khi nghĩ đến Lưu Cơ dễ liên tưởng đến ý "Bắc thuộc"... Thực tế thành Đại La - Đô hộ phủ đã vắng chủ từ khi Ngô Quyền đánh bại Công Tiễn năm 937 đến khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi chọn kinh đô ở Hoa Lư năm 968. Do tình thế phải trụ lại Hoa Lư hiểm yếu, nên toàn bộ Giao Châu Đinh Tiên Hoàng trao gửi ở Lưu Cơ với chức quan Thái sư Đô hộ phủ. Ngài cai quản "Vựa lúa lớn nhất, cũng là kho người, kho của ở Lĩnh Nam là Giao Châu” (gồm toàn bộ đồng bằng Bắc bộ của nước ta) liên tục 40 năm (971 - 1010), xuyên suốt 3 triều đại phong kiến nhà Đinh, Tiền Lê và đầu nhà Lý. Thời Tiền Lê, Ngài Lưu Cơ vẫn cai quản Giao Châu và đã huy động sức của, sức người của Giao Châu cho vua Lê Đại Hành đánh tan quân Tống xâm lược năm 981.

          Thứ ba là trong quá trình cai quản thành Đại La, Thái sư Đô hộ phủ Lưu Cơ đã cho xây dựng lại, cải tạo thành Đại La từ một toà thành Bắc thuộc trở thành một toà thành của Đại Cồ Việt trù phú, vững mạnh đủ điều kiện tiên quyết cho Lý Công Uẩn thực hiện quyết định lịch sử dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Thành Đại La vốn có hướng trục chính, dinh thự và công sở hướng về phương bắc. Phủ Thái sư Lưu Cơ không thể dùng nguyên thành Đại La cũ của Cao Biền, mà phải quay tất cả về hướng nam, tức là chầu về kinh đô Hoa Lư của Đại Cồ Việt. Những sửa sang cải tạo này vẫn được lưu giữ trong tầng văn hoá của Hoàng thành Thăng Long, nhờ khảo cổ đã phát hiện khá nhiều gạch ngói thời Hoa Lư, như gạch "Đại Việt quốc quân thành chuyên"  "Giang Tây quân". Công cuộc cải tạo này cũng liên quan đến việc Lưu Cơ đưa dân nghề gốm từ vùng Bồ Bát, xã Bạch Liên, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình ra làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội nên Thái sư Lưu Cơ được thờ là Thành hoàng làng Bát Tràng - Thánh cả Lưu Thiên Tử đại vương. Toà thành Đại La khi trở thành Kinh đô Thăng Long của vua Lý Thái Tổ vào tháng 7 năm 1010 đã là một kinh đô Đại Cồ Việt được chuẩn bị điều kiện hoàn tất, được ghi nhận là công lao của Thái sư Lưu Cơ.

          Tại Hà Nội, dấu tích của Ngài Lưu Cơ ngoài Hoàng thành Thăng Long, đình Bát Tràng còn có tại di tích đình - đền Hoàng Trung, xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai. Nơi đây, khi đi tuần du Ngài đã tổ chức giải trừ bệnh tật cho dân làng nên được lập đền tôn thờ là Thành hoàng làng, luôn treo cờ lệnh "Đại Thống Chế tướng quân"

          Theo gia phả, khi nhà Đinh bị loạn Lưu Cơ đã khuyên con cháu di đi các nơi để bảo vệ nòi giống. Do vậy, dòng họ Lưu của Ngài Lưu Cơ có thể có người tham gia công cuộc dựng và giữ nước, như em họ của Ngài là Phó sĩ sư Đô hô phủ Lưu Lang. Tướng quân Lưu Lang đã phò tá Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn các sứ quân ở Phù Liệt, Tế Giang, Đằng Châu (Hưng Yên) và Bố Hải (Thái Bình); hiện đang được thờ tại di tích cấp quốc gia đình Đồng Hạ, xã Đức Hợp, huyện Kim Động, Hưng Yên.

          Danh nhân Lưu Cơ đã được đặt tên đường phố tại trung tâm thành phố Ninh Bình, là tuyến đường dài 1.024m thuộc phường Ninh Khánh, từ điểm đầu qua ngã ba giao với đường Tôn Đức Thắng và điểm cuối giao với đường Lý Thái Tổ. Năm 2014, nhân tưởng niệm 1.000 năm huý nhật danh nhân Lưu Cơ, Đài truyền hình  VTV1 đã dựng phim Danh nhân đất Việt "Thái sư Lưu Cơ người trao chìa khoá thành Thăng Long cho Lý Công Uẩn". Ngài Lưu Cơ là nhân vật phó tướng của Đinh Bộ Lĩnh trong phim lịch sử 7 tập "Đinh Tiên Hoàng Đế".

Công văn số 166/UBND-VHTT ngày 18/01/2022 của UBND Quận

          Để tôn vinh công trạng của Thái sư Lưu Cơ, ngày 18/01/2022, UBND Quận Bắc Từ Liêm đã có văn bản số: 166/UBND-VHTT về việc đề nghị bổ sung tên danh nhân “Lưu Cơ” vào ngân hàng tên đường, phố của Thành phố Hà Nội./.

 
TRIỆU MINH