Ξ|Ξ   VĂN HÓA ::. Xã hội.
Đăng ngày 7/9/2013
E-mail     Bản in

Cách xưng hô trong Tông tộc theo sách xưa
...
Ông sơ, bà sơ: Cao Tổ phụ, Cao Tổ mẫu.
Chít: Huyền tôn.

Ông cố, bà cố: Tằng Tỷ phụ, Tằng Tỷ mẫu.
Chắt: Tằng tôn.

Ông nội, bà nội: Nội Tổ phụ, Nội Tổ mẫu.
Cháu nội: Nội tôn.
Ông nội, bà nội chết rồi thì xưng: Nội Tổ khảo, Nội Tổ tỷ.
Cháu xưng là: Nội tôn.
Cháu nối dòng xưng là: Đích tôn: (cháu nội).

Ông ngoại, bà ngoại: Ngoại Tổ phụ, Ngoại Tổ mẫu: (cũng gọi là ngoại công, ngoại bà).
Ông ngoại, bà ngoại chết rồi thì xưng: Ngoại Tổ khảo, Ngoại Tổ tỷ.
Cháu ngoại: Ngoại tôn.

Ông nội vợ, bà nội vợ: Nhạc tổ phụ, Nhạc tổ mẫu.
Ông nội vợ, bà nội vợ chết rồi thì xưng: Nhạc Tổ khảo, Nhạc Tổ tỷ.
Cháu nội rể: Tôn nữ tế.

Cha mẹ chết rồi thì xưng: Hiển khảo, Hiển tỷ.
Cha chết rồi thì con tự xưng là: Cô tử, cô nữ (cô tử: con trai, cô nữ: con gái).
Mẹ chết rồi thì con tự xưng là: Ai tử, ai nữ.
Cha mẹ đều chết hết thì con tự xưng là: Cô ai tử, cô ai nữ.
Cha ruột: Thân phụ.
Cha ghẻ: Kế phụ.
Cha nuôi: Dưỡng phụ.
Cha đỡ đầu: Nghĩa phụ.

Con trai lớn (con cả thứ hai): Trưởng tử, trưởng nam.
Con gái lớn: Trưởng nữ.
Con kế. Thứ nam, thứ nữ.
Con út (trai): Quý nam, vãn nam. Gái: quý nữ, vãn nữ.

Mẹ ruột: Sanh mẫu, Từ mẫu.
Mẹ ghẻ: Kế mẫu: Con của bà vợ nhỏ kêu vợ lớn của cha là má hai: Đích mẫu.
Mẹ nuôi: Dưỡng mẫu.
Mẹ có chồng khác: Giá mẫu.
Má nhỏ, tức vợ bé của cha: Thứ mẫu.
Mẹ bị cha từ bỏ: Xuất mẫu.
Bà vú: Nhũ mẫu.

Chú, bác vợ: Thúc nhạc, Bá nhạc.
Cháu rể: Điệt nữ tế.
Chú, bác ruột: Thúc phụ, Bá phụ.
Vợ của chú : Thiếm, Thẩm.
Cháu của chú và bác, tự xưng là Nội điệt.

Cha chồng: Chương phụ.
Dâu lớn: Trưởng tức.
Dâu thứ: Thứ tức.
Dâu út: Quý tức.

Cha vợ (sống): Nhạc phụ, (chết): Ngoại khảo.
Mẹ vợ (sống): Nhạc mẫu, (chết): Ngoại tỷ.
Rể: Tế.
Chị, em gái của cha, ta kêu bằng cô: Thân cô.
Ta tự xưng là: Nội điệt.
Chồng của cô: Dượng: Cô trượng, tôn trượng.
Chồng của dì: Dượng: Di trượng, biểu trượng.
Cậu, mợ: Cựu phụ, cựu mẫu. Mợ còn gọi là: Câm.
Còn ta tự xưng là: Sanh tôn.
Cậu vợ: Cựu nhạc.
Cháu rể: Sanh tế.

Vợ: Chuyết kinh, vợ chết rồi: Tẩn.
Ta tự xưng: Lương phu, Kiểu châm.
Vợ bé: Thứ thê, trắc thất.
Vợ lớn: Chánh thất.
Vợ sau (vợ chết rồi cưới vợ khác): Kế thất.

Anh ruột: Bào huynh.
Em trai: Bào đệ, cũng gọi: Xá đệ.
Em gái: Bào muội, cũng gọi: Xá muội
Chị ruột: Bào tỷ.
Anh rể: Tỷ trượng.
Em rể: Muội trượng.
Anh rể: Tỷ phu.
Em rể: Muội trượng, còn gọi: Khâm đệ.
Chị dâu: Tợ phụ, Tẩu, hoặc tẩu tử.
Em dâu: Đệ phụ, Đệ tức.
Chị chồng: Đại cô.
Em chồng: Tiểu cô.
Anh chồng: Phu huynh: Đại bá.
Em chồng: Phu đệ, Tiểu thúc.
Chị vợ: Đại di.
Em vợ (gái): Tiểu di tử, Thê muội.
Anh vợ: Thê huynh: Đại cựu: Ngoại huynh.
Em vợ (trai): Thê đệ, Tiểu cựu tử.
Con gái đã có chồng: Giá nữ.
Con gái chưa có chồng: Sương nữ.
Cha ghẻ, con tự xưng: Chấp tử.

Tớ trai: Nghĩa bộc.
Tớ gái: Nghĩa nô.
Cha chết trước, sau ông nội chết, tôn con của trưởng tử đứng để tang, gọi là: Đích tôn thừa trọng.
Cha, mẹ chết chưa chôn: Cố phụ, cố mẫu.
Cha, mẹ chết đã chôn: Hiền khảo, hiển tỷ.
Mới chết: Tử.
Đã chôn: Vong.

Anh em chú bác ruột với cha mình: Đường bá, Đường thúc, Đường cô, mình tự xưng là: Đường tôn.
Anh em bạn với cha mình: Niên bá, Quý thúc, Lịnh cô. Mình là cháu, tự xưng là: Thiểm điệt, Lịnh điệt.
Chú, bác của cha mình, mình gọi: Tổ bá, Tổ thúc, Tổ cô.
Mình là cháu thì tự xưng là: Vân tôn
Quang Bình (St)


Gửi ý kiến của bạn
(Xin hãy viết chữ có dấu! Xin cảm ơn!)