- Họ Lưu trong lịch sử Việt Nam:
Họ Lưu là một trong những dòng họ được đề cập trong lịch sử Việt Nam rất sớm. Theo Trúc Khê, Ngô Văn Triện [2], đền Đồng Cổ có từ năm 2569 trước Công Nguyên (TCN), thuộc đời đầu Hùng Vương, tại làng Khả Lao (sau từ đời nhà Trần gọi là Đan Nê, nay thuộc xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Lúc đó, ở Khả Lao có ba dòng họ Trịnh, Lưu và Hà sinh sống. Từ vùng đất này dòng họ Lưu đã phát triển lan rộng và chuyển cư sang các địa phương khác.
Sơ lược di tích có ghi “Miếu Đồng Cổ được khởi dựng từ thời Hùng Vương (2569 TCN)
Tiếp theo, trong truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” thời Hùng Vương, hơn 2000 năm TCN, cô con gái đạo sỹ họ Lưu, lấy người anh trong cặp sinh đôi họ Cao[3] là học trò của cha cô.
Giai đoạn từ năm 144 đến 705[4], có 11 thứ sử họ Lưu người Trung Hoa sang cai quản Việt Nam. Họ là những người đã đỗ đạt cao và có năng lực với chức sắc quan trọng trong các triều đại Trung Quốc, do vậy có nhiều ảnh hưởng đến các vùng họ cai quản. Đặc biệt, từ góc độ dòng họ, một số quan đô hộ đã lấy vợ người Việt, sinh con cháu tạo nên các chi họ tại địa phương đó, các thế hệ tiếp theo phần lớn được học hành và được đào tạo trong điều kiện tốt hơn, trở thành những người có đóng góp cho người dân đất Việt. Thực tế, không ít quan đô hộ đã trở thành thủy tổ dòng họ Lưu tại Việt Nam, như Thứ sử Vũ Hồn (841-843) được tôn là Thủy tổ Vũ - Võ... Có thể những người tùy tùng đi theo các thứ sử hoặc chính các thứ sử mang họ Lưu đã tạo dựng một số dòng họ Lưu tại một số địa phương, nơi họ sang, như họ Lưu - Dương Quảng (Gia Lâm, Hà Nội) [5], do một quan viên họ Lưu cùng Thái thú Sĩ Nhiếp sang cai quản Giao Châu (187-226) [6; tr.80], rồi ở lại để dạy học; hay như họ Lưu - Nguyệt Áng (Thanh Trì, Hà Nội) từ Bành Thành, Giang Tô sang thời Lê Sơ [7].
Thời kỳ tự chủ của quốc gia Đại Việt (938-1858), gồm: nhà Ngô, Đinh, Lê (Tiền Lê), Lý, Trần, Lê (Lê Sơ), Mạc, Tây Sơn và Nguyễn, Họ Lưu Việt Nam có nhiều danh nhân, công thần khai quốc, đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiêu biểu có Khai quốc công thần gây dựng nhà Đinh là Thái sư Đô hộ phủ Lưu Cơ (940-1013) [8; tr.403-411] (Xem Phụ lục 1). Lưu Cơ là người trang Tri Hối, châu Đại Hoàng, Ái Châu (nay thuộc xã Gia Tân, huyện Gia Viễn, Ninh Bình) là con cầu tự tại Bạch Bát Sơn Thần (thuộc xã Bạch Liên, Yên Mô, Ninh Bình); Ông cùng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú là tứ trụ triều đình lập lên nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt, do Đinh Bộ Lĩnh làm Hoàng đế. Năm 971, sau khi dẹp xong các sứ quân (Lưu Cơ bình định sứ quân Lý Khuê), yên vị ngôi Hoàng đế, Đinh Tiên Hoàng đã tổ chức bộ máy triều đình Đại Việt đầu tiên của Việt Nam, Lưu Cơ đứng tên đầu danh sách các quan trong triều với cương vị Thái sư Đô hộ phủ thành Đại La quan trọng với vai trò cai quản kho người, vựa lúa của Giao Châu đã được Vua Đinh giao cho vị quan đứng đầu triều Thái sư trông coi.
"Bạch Bát Sơn thần" (nay thuộc làng Bạch Liên, xã Yên Thành, Yên Mô, Ninh Binh)
tương truyền là nơi cha mẹ cụ Lưu Cơ đến ăn chay cầu tự
Thái sư Lưu Cơ, cai quản toàn bộ Giao Châu, đóng đại bản doanh ở thành Đại La. Khi nhà Tiền Lê (từ 980 đến 1009) thay thế nhà Đinh, Thái sư Lưu Cơ vẫn được giao trọng trách như cũ, tổng cộng cai quản La Thành gần 40 năm (từ năm 971 đến năm 1010). Ông là người đầu tiên cải tạo thành Đại La - An Nam đô hộ phủ thuộc địa hướng Bắc trở thành một tòa thành quay về hướng Nam, thể hiện sự độc lập, tự chủ của Hoàng đế Đại Việt ở Hoa Lư. Mọi hướng nhìn của cổng thành và dinh thự cũ đều được sửa đổi theo hướng về Nam. Nhờ La Thành được chuẩn bị tốt về hạ tầng nên chỉ trong 2 tháng từ khi có chiếu dời đô, Thái sư Lưu Cơ đã bàn giao cho vua Lý Thái Tổ vào ổn định kinh đô Thăng Long.
Năm 1010, sau khi bàn giao La thành cho Lý Công Uẩn, Thái sư Lưu Cơ nghỉ hưu. Người đã về thăm quê cũ ở trang Tri Hối rồi lên trang Đại Từ, Siêu Loại (nay thuộc xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, Hưng Yên), nơi Người đã đóng quân để trực tiếp bình định sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại, Thuận Thành [9]. Lưu Cơ đã ban phát cho dân Đại Từ đất cánh tác, mỗi suất đinh một mẫu. Tại đây, sau khi Người mất, theo di nguyện của Người dân làng đã lập đền thờ Thành Hoàng - Tuy Lộc Đại vương Lưu Cơ; các triều đại Lê, Lý, Trần... đều ban sắc phong. Khai quốc công thần, Đại vương Lưu Cơ còn được phối thờ tại đền vua Đinh, Phủ Đột - đền Trình (ở Tràng An, Ninh Bình), tại đền Ngọc Sơn (thôn Uy Viễn, Liên Sơn, Gia Viễn, Ninh Bình), miếu thờ Đàm Thái Hậu (thân sinh của Đinh Tiên Hoàng) tại làng Lộc Thọ (xã Độc Lập, Hưng Hà, Thái Bình) [10]; là Thánh Cả - Lưu Thiên Tử thờ trong Đình Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) [11; tr.49-53 và 290-292]. Đặc biệt, Cao Tổ Lưu Cơ là một trong tứ trụ triều đình đang được tạc tượng ở hướng của quảng trường - tượng đài Đinh Tiên Hoàng tại trung tâm TP Ninh Bình và một đường phố (vuông góc với Đinh Tiên Hoàng và Trần Hưng Đạo tại Trung tâm TP Ninh Bình) mang tên Lưu Cơ.
Tượng Đại vương Lưu Cơ thờ trong đền Ngọc Sơn, xã Liên Sơn, Gia Viễn, Ninh Bình
Thời Tiền Lê, sau khi Lê Hoàn được phong chức Tĩnh Hải Tiết Độ sứ vào năm 982 (sau là Nam Bình vương) và kết giao yên bình được mặt phía Bắc, Vua Lê Đại Hành đã cất quân chinh phạt Chiêm Thành (Champa). Lúc này, Chiêm Thành là một quốc gia tự chủ gần 800 năm và chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, thường xuyên đánh phá phía Nam Đất Việt. Vua Lê Đại Hành đánh chiếm được Kinh đô Đồng Dương (Quảng Nam), chém được vua Chiêm là Tỳ Mi Thuế, làm tiêu tan âm mưu cấu kết với nhà Tống xâm lược Đại Cồ Việt [6; tr.140]. Khi chiếm đến tận Bình Định (Vijaya), vua Lê cho lưu lại một đạo quân trú phòng dưới quyền chỉ huy của Quản giáp Lưu Kế Tông để chiếm đóng phần phía bắc Chiêm Thành (từ Hoành Sơn đến Bình Định). Vua Chiêm mới là Indravarman IV bỏ thành chạy trốn vào Nam, cát cứ miền Khánh Thuận (Panduranga).
Bà con họ Lưu Danh xã Liên Sơn cùng đoàn NC Họ Lưu VN tại đền Ngọc Sơn
Lưu Kế Tông tự lập làm vua Chiêm Thành [12; tr.123-126] và cử sứ giả mang phẩm vật sang triều cống vua Tống. Trong những năm tiếp theo, người Chiêm tiếp tục chống đối Lưu Kế Tông, nên bị trấn áp, nhiều người Chiêm bỏ chạy di tản sang quy phục Trung Quốc (vùng Hải Nam và Quảng Châu) mỗi ngày một nhiều. Năm 988, người Chiêm Thành nổi dậy chiếm lại miền Bình Định, dựng vua mới là Ku Xri Harivarman II (tên Việt là Băng vương La Duệ). Lưu Kế Tông bị bệnh, mất năm 989. Như vậy, Lưu Kế Tông lên ngôi làm Vua của Chiêm Thành được 3-5 năm. Việc Lưu Kế Tông lên ngôi vua nước Chiêm Thành đó là sự thật đã được chính sử Nhà Tống Trung Hoa [13] và Chiêm Thành đều có ghi lại.
Đền thờ Lưu Xá (đền Nhị vị Lưu Đại vương), Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình
Thái bảo Lưu Ngữ [14] là quan nhất phẩm, đại thần nhà Tiền Lê, người có công lớn cho Vương triều Tiền Lê, được Vua Lê ban đất Lưu Xá (nên còn gọi là Lưu Gia) để làm thái ấp. Làng Lưu Xá[1] có bến đò Lưu Gia được lưu danh lịch sử trong bài thơ “Lưu Gia độ” của Thượng tướng - Thái sư Trần Quang Khải. Lưu Ngữ sinh được hai con trai cùng ngày, nhưng khác giờ là Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba (Lưu Điều). Hai người có đóng góp lớn cho Vương nghiệp nhà Lý (1009-1225), làm đến chức Thái úy Lưu Khánh Đàm[2] và Thái phó Lưu Ba; được thờ là Khai quốc công thần, Thượng đẳng Phúc thần trong đền Lưu Xá (thuộc xã Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình). Theo “Lưu Đại vương Ngọc phả” thì trong đền Lưu Xá thờ “Tứ Thánh nhất tâm”, ngoài Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba còn thờ hai Đại vương Lưu Kỳ Công và Lưu Huy Công là hai con nuôi của Lưu Ngữ, có công hợp sức với Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba trong việc bảo vệ đất nước, được phong làm Đại tướng. Khu di tích Lịch sử - Kiến trúc nghệ thuật (gồm đền Lưu Xá, chùa Báo quốc và các di tích danh nhân họ Lưu) tại xã Canh Tân đã được UBND tỉnh Thái Bình phê duyệt Quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 với diện tích 9,6 ha[3] và đang được khởi động triển khai đầu tư.
Con thứ ba của Lưu Ngữ là đại sư Lưu Lượng [15; tr. 196] được thờ trong cụm di tích đình, đền, chùa Diệc, xã Tân Hòa bên cạnh (di tích cấp Quốc gia từ 1993). Các đời sau tại Lưu Xá có Lưu Thiện là gia thần của vua Lý Cao Tông (1173-1210), Lưu Thiện và Lưu Vũ Nhĩ được ghi trong sử sách cuối triều Lý.
Lễ Hội Núi Văn - Núi Võ tại Đền Lưu Nhân Chú ở Đại Từ, Văn Yên, Thái Nguyên
Cao Tổ Lưu Nhân Chú đã được Lịch sử ghi rõ ràng là cùng Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn phò Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa, đánh thắng đuổi quân Minh, giải phóng dân tộc sau 10 năm kháng chiến, lập nên triều đại nhà Lê của Đại Việt do Lê Thái Tổ ở ngôi Hoàng đế. Từ Văn Yên, Thái Nguyên bố con Lưu Trung - Lưu Nhân Chú tham gia ngay từ khi tập hợp lực lượng ban đầu (1409). Lưu Nhân Chú đã tham gia Hội thề Lũng Nhai (1416), nên được gọi là Lũng Quốc công. Cả gia đình Lưu Nhân Chú, gồm bố là Lưu Trung, anh trai (cùng mẹ khác cha) Trịnh Khắc Phục và em rể là Phạm Cuống đều là khai quốc công thần triều Lê, nằm trong danh sách 51 vị tướng của cuộc kháng chiến, lập nhiều chiến công, được phong hầu và ban quốc tính [17; tr.167-184].
Lưu Nhân Chú là thiên tài quân sự, đã tham gia chỉ huy đánh trận ở mọi chiến trường như ở Thanh Hóa, Nghệ An, Ai Lao, Đất Bắc, Biên giới... điển hình là các trận: Khả Lưu (Nghệ An - 1424), Tây Đô (Thanh Hóa - 1425), chặn địch ở vùng đất Bắc (1426), Chi Lăng (1427), Xương Giang (1427)... Trận Xương Giang - Chi Lăng, tiêu diệt toàn bộ viện binh của quân Minh do Liễu Thăng cầm đầu, tướng giặc Liễu Thăng bị chặt đầu. Năm 1428, Lưu Nhân Chú được Lê Lợi ban chức Tể tướng, nhưng vẫn giữ chức nhiệm coi nắm binh quyền, Vinh quốc công. Lưu Trung làm chức Nhập nội Tư mã - Đại tướng quân, Chi Quận công. Phạm Cuống làm Nhập nội Thiếu úy, Thượng tướng quân Thượng trụ quốc, Trù Quốc công. Trịnh Khắc Phục làm Tả kim ngô Thượng tướng quân Phán Thái tông Chính phủ. Năm 1484, Lưu Nhân Chú được vua Lê Thánh Tông giải oan và truy tặng là Thái phó Trung Quận công, Lưu Trung là Thái úy Giới quận công; hàng năm vẫn tổ chức Lễ Hội Núi Văn - Núi Võ để tưởng nhớ đến những Danh nhân họ Lưu ở Thái Nguyên.
Hàng bia đá khắc tên các Ông Trạng, Thám, Tiến sĩ
trong Văn Miếu Quốc Tử Giám (ảnh năm 1991)
Trong Lịch sử Văn hiến đất nước, năm 1075 (đời vua Lý Nhân Tông) bắt đầu tổ chức kỳ thi đại khoa toàn quốc để tuyển chọn nhân tài - “Nguyên khí Quốc gia”, chọn trí thức Nho học tài giỏi, bổ sung quan chức cao cấp cho triều đình [18]. Tính đến kỳ thi cuối cùng (1919), Họ Lưu Việt Nam có 26 Tiến sỹ Nho học (Xem Phụ lục 02), trong đó có 04 người đỗ đầu là Lưu Diễm đỗ Đệ nhất giáp (năm 1232) [6; tr.270], Lưu Miễn đỗ Đệ nhất giáp khoa (1239), Lưu Thúc Kiệm đỗ Đệ nhất giáp khoa (1400) và Trạng nguyên Lưu Danh Công (1670). Những Danh nhân văn hóa Họ Lưu này có đóng góp công lao to lớn cho đất nước, để lại nhiều danh tiếng muôn đời cho con cháu họ Lưu. Các cụ được phong chức Thượng thư, Đông Các đại học sỹ, Hiến sát sứ, đi sứ phương Bắc... là những quan chính trực, thanh liêm v.v. ví như TS Lưu Quỹ, làng Nguyệt Áng, đỗ khoa thi Ất Mùi (1835) đã cùng Nguyễn Bỉnh Đức dâng 10 sách lược trị nước, đều là những điều tâm đắc làm cho dân giàu, nước thịnh [19; tr.68-74].
Các nhà khoa bảng cả nước nói chung, của họ Lưu nói riêng đã tạo ra nhiều vùng đất phát triển cho các thế hệ sau này, như họ Lưu - Vĩnh Trị (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) có 3 Tiến sỹ (trong đó có 2 Trạng nguyên Lưu Diễm và Lưu Miễn), họ Lưu - Trạm Lộ (Thuận Thành, Bắc Ninh) có 3 tiến sỹ (trong đó có 1 Trạng nguyên là Lưu Thúc Kiệm), họ Lưu - Thanh Liệt (Thanh Trì, Hà Nội) có Trạng nguyên Lưu Danh Công, họ Lưu Đức - Vũ Nghị (Thái Thụy, Thái Bình) có TS Lưu Đức An đã lập ra các dòng họ Lưu tại Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghệ An...), họ Lưu - Nguyệt Áng (Thanh trì, Hà Nội) có 3 Tiến sỹ một nhà (Lưu Tiệp, Lưu Định và Lưu Quỹ)...
Kế tiếp là hai anh em Tướng quân Cần Vương Lưu Điệt và Thượng thư Bộ lễ Lưu Đức Xứng (quê ở Cao Lao Hạ, huyện Bố Trạch, Quảng Bình) [19, tr. 133-134] (là con của TS Thượng thư Lưu Văn Bình - đỗ Tiến sĩ năm 1853). Tuy chỉ đỗ Cử nhân, nhưng Lưu Đức Xứng đã tham gia viết nhiều bộ sách lớn, như “Đại Nam nhất thống chí”, Quảng Bình đăng khoa mục”, “Hội điển của triều Nguyễn”. Ngoài ra, còn có nhiều nho sỹ họ Lưu (Cử nhân, Sinh đồ, Tú tài...) đã cống hiến cho triều đình và cho nhân dân trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Khắp đất nước Việt Nam đều có người của các dòng họ Lưu sinh sống. Trong đó nổi bật tập trung ở một số địa danh nổi tiếng, như Thanh Hóa (điển hình là ở huyện Yên Định, có thể là nơi đất cổ của Họ Lưu và Thiệu Hóa, quê của Thái bảo Lưu Ngữ và Hoằng Hóa quê của 2 Trạng nguyên Lưu Diễm và Lưu Miễn...); Bắc Ninh (Thuận Thành, quê của Trạng nguyên Lưu Thúc Kiệm...); Thái Bình (Hưng Hà, quê của Nhị vị Lưu đại vương, Thái Thụy, quê của Thượng thư - TS Lưu Đức An, Quỳnh Phụ...); Hà Nội (Thanh Trì, quê của Trạng nguyên Lưu Công Danh, của gia đình ba Tiến sỹ ở Nguyệt Áng, Gia Lâm, Từ Liêm, Ba Vì...); Nghệ An (Nam Đàn, Thanh Chương, Hưng Nguyên, Yên Thành...); Vĩnh Phúc (Phúc Yên, Thanh lãng...); Phú Thọ (Việt Trì), Nam Định, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Quảng Bình, Bình Định, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Cần Thơ, Cà Mau... và có một bộ phận hậu duệ Họ Lưu VN hiện đang sinh sống tại nhiều quốc gia hải ngoại như: Pháp, Mỹ, Hàn Quốc v.v... (có Việt kiều là nhân tài người Họ Lưu ở Quảng Bình đã có lần từng làm chức vụ cố vấn cho Thủ tướng Canada).
Họ Lưu Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh có rất nhiều gương mặt tiêu biểu, như Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện (tên thật là Lưu Văn Thi, quê Hà Nam), Uỷ viện dự khuyết BCH TƯ Đảng CSVN, nguyên Thứ trưởng Bộ QP; Bà Lưu Phương Mai, nguyên Quyền Bộ trưởng Bộ LTTP; Viện sỹ, nhạc sỹ Lưu Hữu Phước, nguyên Bộ trưởng Bộ TTVH của Chính phủ CMLT CHMNVN, Đại biểu Quốc hội - Chủ nhiệm UBVHGD của QH nước CHXHCN Việt Nam; Nhà ngoại giao Kiệt xuất, Luật gia Lưu Văn Lợi, nguyên Trưởng ban Biên Giới của Chính Phủ (hàm Bộ trưởng và đang hưởng thọ tuổi 101); GS TSKH Lưu Trần Tiêu, Chủ tịch HĐ Di sản Quốc Gia, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ VHTTDL); Ông Lưu Văn Mẫn, nguyên Phó Chánh VP TƯ Đảng CSVN; TS Lưu Minh Trị, Chủ tịch Hội DSVH Thăng Long, Hà Nội, nguyên PCT UBND Hà Nội; Ông Lưu Minh Hiệu, nguyên PCT UBND tỉnh Thái Bình.
Mừng thọ tuổi 100 Cụ LƯU VĂN LỢI (từ trái sang: TS. Lưu Văn Lượng - TS. Lưu Văn Thành
GS. Lưu Văn Đạt - LG. Lưu Văn Lợi - Ô. Lưu Văn Sửu - Ô. Lưu Thế Đài)
Về KHKT, họ Lưu có hàng trăm GS, PGS, TS, điển hình nhất là GS TS Jane X. Luu (tên Việt là Lưu Lệ Hằng, sinh năm 1963 tại Sài Gòn, quê ở Nam Định, sang Mỹ năm 1975). Giáo sư và người thầy dạy (Giáo Sư David C. Jewitt, giám đốc Viện NC Thiên Thể, ĐH UCLA), với Công trình “Ðịnh danh các vật thể ngoài Hải Vương Tinh” (Trans-Neptunian Objects) đã được giải thưởng “Shaw Thiên Văn học 2012” của Hồng Kông (gọi là giải “Nobel” châu Á) và Công trình khám phá “Vành đai Kuiper” được giải “Kavli Thiên Văn học 2012” của Na Uy, tổng trị giá 2,0 triệu USD. Tên GS TS Jane X. Luu được đặt cho một ngôi sao 5430Luu.
Ngoài ra, còn có GS Luật sư nổi tiếng Lưu Văn Đạt (Nguyên PCT kiêm TTK Hội Luật Gia Việt Nam, UV Đoàn Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Dân chủ - Pháp luật, MTTQ Việt Nam); GS TSKH Lưu Duẩn (ĐHCN Sài Gòn) được giải “Thực phẩm toàn cầu” của IUFoST World Congress tại Braxin 2012...; hai đại biểu Quốc hội khóa XIII (Lưu Thị Huyền, Chủ tịch MTTQ huyện Gia Viễn, Ninh Bình; Lưu Thành Công, PGĐ Sở GDĐT Vĩnh Long). Họ Lưu Việt Nam có 12 sỹ quan cấp tướng, trong đó có 04 Trung tướng (Lưu Đức Huy, Lưu Phước Lượng, Lưu Sỹ Hiệp và Lưu Bá Xảo); Nhiều văn nghệ sỹ nổi tiếng như GS Lưu Hữu Phước, nhà thơ Lưu Trọng Lư, hai cha con nhà biên kịch Lưu Quang Thuận + Lưu Quang Vũ, nghệ sỹ Piano Lưu Hồng Quang...; Hoa hậu Lưu Diễm Hương... và rất nhiều doanh nhân đang hoạt động phát triển kinh doanh hàng ngày.
Viện sỹ, Nhạc sỹ, Bộ trưởng Lưu Hữu Phước,
người sáng tác bài hát “Giải phòng Miền Nam - Quốc ca CHMNVN
Trong kháng chiến thắng đế quốc xâm lược, họ Lưu có rất nhiều đóng góp, điển hình là Anh hùng LLVT Lưu Viết Thoảng (quê Bắc Giang, trong Chiến thắng Điện Biên Phủ); Anh hùng LLVT - Đại tá Lưu Huy Chao (quê Thanh Hóa, phi công bắn rơi 6 máy bay Mỹ và yểm hộ cho đồng đội hạ 11 chiếc khác), Anh hùng Lưu Quí An (quê Mê Linh, Hà Nội) và nhiều con em họ Lưu Việt Nam đã hy sinh xương máu trên chiến trường, là thương binh và nhiều người mẹ họ Lưu đã trở thành Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; nhiều người lập chiến công hiển hách được tặng thưởng nhiều huy, huân chương các loại.
Trong công cuộc xây dựng đất nước có nhiều đồng tộc họ Lưu tiêu biểu, như AHLĐ Lưu Đình Thành, họ Lưu Đình - Đan Nê, Thanh Hóa...
1. Một số nhận xét ban đầu về họ Lưu Việt Nam:
Họ Lưu Việt Nam là một phần cùng các dòng họ khác tạo nên dân tộc Việt Nam. Theo truyền thuyết (Ngọc phả Hùng vương) thì Họ Lưu Việt Nam là một trong “trăm họ bách tính” của Quốc Tổ Lạc Long Quân và Mẫu Tổ Âu Cơ [20]. Người họ Lưu theo mẹ Âu Cơ lên núi. Nếu Lạc tướng Lưu Lang (trong số 100 con của Lạc Long Quân - Âu Cơ) mang họ Lưu thì họ Lưu đứng thứ 78.
Hiện nay, người họ Lưu Việt Nam sống trải rộng khắp mọi miền Tổ quốc. Tất cả 63 tỉnh, thành (từ địa đầu Móng Cái, đến mũi Cà Mau) đều có các dòng họ Lưu định cư, làm ăn. Nơi có mật độ các dòng họ Lưu dày nhất có lẽ là huyện Yên Định, theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì gồm 16 dòng họ. Các dòng họ phía Bắc (tính đến tỉnh Quảng Bình) sinh hoạt dòng họ ổn định hơn. Hầu hết, các dòng họ giữ được quan hệ huyết thống gắn bó và sinh hoạt giỗ chạp họ thường niên. Phần nhiều các dòng họ đã và đang tôn tạo nhà thờ họ, hoặc ít nhất có bàn thờ họ chung. Các dòng họ phía Nam do có các cuộc Nam tiến trong lịch sử nên việc co cụm sinh hoạt dòng họ bị tản mạn. Số lượng các dòng họ tập trung và có nhà thờ họ thưa hơn. Tuy nhiên, các nơi có nhà thờ họ thì thông thường được xây dựng to và rộng hơn. Việc nghiên cứu các dòng họ cần có thời gian để triển khai sâu và rộng hơn.
Họ Lưu Việt Nam chủ yếu là người bản xứ. Nếu chứng minh được người Họ Lưu có mặt tại Đan Nê, Yên Thọ, Yên Định, Thanh Hóa từ trước năm 2569 TCN thì đó là nơi phát tích đầu tiên của Họ Lưu Việt Nam. Từ đó, họ Lưu phát triển di chuyển, lan tỏa ra. Điều này cũng có thể lý giải một thực tế họ Lưu có mặt ở huyện Yên Định đông nhất. Ngoài ra, còn có các nguồn gốc họ Lưu khác, đó là do biến động quá trình lịch sử, như một phần các dòng họ khác phải cải sang họ Lưu hoặc để tránh những thảm họa tàn sát của thời cuộc hoặc do họ Lưu vùng đó, thời đó đang rất thịnh vượng nên các người thuộc dòng họ khác muốn mang tên Họ Lưu. Ngược lại, một số chi họ Lưu cũng phải đổi sang họ khác, như họ Lưu - Phạm (xã Kim đường, Ứng Hòa, Hà Nội), Lưu - Nghiêm (làng Viên, Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội)... Điển hình nhất là vào thời kỳ Nhà Trần thay Nhà Lý, toàn bộ người họ Lý ở các vùng có ảnh hưởng trực tiếp của nhà Trần, bắt buộc phải người họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn [6; tr. 270] (họ Nguyễn - Lý). Để bảo tồn dòng họ, có hai chi phái họ Lý đã phải di sang sống bên Cao Ly (Hàn Quốc)[4]. Họ Lưu là công thần của vương triều Nhà Lý nên cũng bị ảnh hưởng rất lớn, nhiều người bị giết cùng với vua tôi Nhà Lý, hoặc phải ly hương hoặc bị cải sang họ khác.
Có những làng xưa là đất của họ Lưu, hoặc gắn bó với các quan thần họ Lưu, nhưng nay không còn bất kỳ người họ Lưu nào còn sinh sống ở đó, như làng Lưu Xá (Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình), làng Đại Từ (Đại đồng, Văn Lâm, Hưng Yên), xã Thiệu Trung (Thiệu Hóa, Thanh Hóa), quê của Thái bảo Lưu Ngữ… Đối chiếu một số gia phả, thì thấy một hiện tượng rất riêng là có những gia phả không ghi lại nguồn gốc tổ tiên dòng họ Lưu của mình. Các thế hệ trước kia đã thận trọng dấu tung tích nhằm bảo tồn dòng họ, ví như họ Lưu - Tường Lai (Yên Thành, Nghệ An)... Điều đó chứng tỏ Cao Tổ của dòng họ Lưu đó là những người nổi tiếng hoặc có ảnh hưởng nhất định trong xã hội nên phải tránh rủi ro bị truy tìm hoặc bị triệt tiêu.
Ban Nghiên cứu họ Lưu VN mới đi điều tra điền dã được ba cố đô: Phong Châu, Tây Đô (Thanh Hóa) và Hoa Lư. Nhiều dòng họ Lưu có nhà thờ lâu đời (rải rác ở Hà Nội và nhiều tỉnh, thành) và có một số di tích tâm linh (đền, đình) thờ các danh nhân lịch sử họ Lưu. Đặc biệt, đoàn được các nhà sử học tin tưởng giới thiệu những kết quả nghiên cứu dày công của họ có liên quan đến họ Lưu và danh nhân họ Lưu Việt Nam. Tất cả các nơi đoàn đến gặp mặt và tìm hiểu đều còn lưu giữ nhiều tư liệu rất quí, cần có sự tin cậy và đặt vấn đề nghiêm túc thì họ mới cởi mở cho tham khảo. Chính nhờ vậy bước đầu đã phát hiện được 21 danh thần tiêu biểu của họ Lưu Việt Nam, được các triều đại trước kia ban sắc phong (Phụ lục số 1).
Ngoài ra, có một số chi nhánh họ Lưu có nguồn gốc khác xuất hiện ở Việt Nam, như có một số thái thú Trung Hoa sang cai quản Việt Nam, đã hình thành chi họ Lưu tại các địa phương do họ cai quản. Con cháu của họ tiếp tục định cư tại Việt Nam trở thành một dân tộc tiểu số (người Hoa) tại một số địa phương. Họ thông thạo về thương mại, bốc thuốc, dạy học và cũng tham gia chiến đấu chống giặc ngoại xâm (kể cả giặc phương Bắc) bảo vệ đất nước. Ngoài ra, do hậu quả của cuộc nội chiến bên Trung Quốc, nhiều người Hoa từ các tỉnh phía Nam Trung Quốc đã vượt qua đường biên giới phía Bắc sang định cư ở một số tỉnh phía Bắc (theo triền hai dãy núi Tam Đảo và Đông Triều). Một số qua đường biển vào định cư ở một số tỉnh phía Nam (người Minh Hương). Trong số hơn 800 nghìn người Hoa đang định cư tại Việt Nam [21], chỉ có một số người mang họ Lưu, phần lớn còn lại mang nhiều dòng họ khác.
Hiện nay, thông tin về các dòng họ Lưu toàn quốc còn tản mát. Bài viết này mới mang tính chất cung cấp thông tin ban đầu, cần thu thập nhiều hơn tư liệu từ các nguồn tư liệu của các dòng họ, cần tra cứu nhiều tư liệu lịch sử từ nhiều nguồn khác nhau. Từ đó, mới có thể có bức tranh tổng thể về Họ Lưu Việt Nam, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết nối các dòng họ lại với nhau. Do vậy, tiếp tục cần có thời gian, công sức và nguồn tài chính để phối hợp với các nhà nghiên cứu chuyên môn, của các dòng họ Lưu ở các địa phương để làm sáng tỏ những vấn đề còn tồn nghi. Từ đó, có thể tiến hành phân tích, đánh giá về họ Lưu một cách tổng thể trong sự phát triển chung của đất nước và tổng hợp các mối liên hệ giữa các dòng họ Lưu thành Cây Phả hệ Lưu Tộc Việt Nam.
PHỤ LỤC
Phụ lục 01: QUAN ĐẠI THẦN, DANH TƯỚNG HỌ LƯU THỜI XƯA
(Xếp theo lịch thời gian; Không kể các Tiến sỹ thi đỗ Đại khoa)
TT |
HỌ VÀ TÊN |
QUÊ QUÁN |
CHỨC QUAN |
THỜI GIAN |
1 |
Lưu Cơ |
Ninh Bình |
Thái sư Độ hộ phủ
Khai quốc công thần, quan đứng đầu triều đình |
Nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý |
2 |
Lưu Kế Tông |
|
Giáp Quân, sau là Vua Chiêm Thành (984 – 989) |
Nhà Tiền Lê |
3 |
Lưu Ngữ |
Thanh Hóa |
Thái bảo |
Nhà Tiền Lê |
4 |
Lưu Khánh Đàm |
Thái Bình |
Thái úy
Khai quốc công thần |
Nhà Lý |
5 |
Lưu Ba (Lưu Điều) |
Thái Bình |
Thái phó
Khai quốc công thần |
Nhà Lý |
6 |
Lưu Lượng |
Thái Bình |
Đại sư (Quốc sư) |
Nhà Lý |
7 |
Lưu Vũ Xứng |
|
Gián nghị Đại phu |
Nhà Lý |
8 |
Lưu Trung |
Thái Nguyên |
Đại tướng (Cha của Lưu Nhân Chú)
Khai quốc công thần |
Nhà Lê Sơ |
9 |
Lưu Nhân Chú |
Thái Nguyên |
Tể tướng
Khai quốc công thần |
Nhà Lê sơ |
10 |
Lưu Quận Tri |
Nam Định |
Tổng Minh Đô |
Nhà Lê sơ |
11 |
Lưu Xuân Tín |
Hải Dương |
Thượng thư Bộ Công |
Nhà Lê sơ |
12 |
Lưu Văn Tiên |
Quảng Bình |
Đại tướng quân, Chánh nhất phẩm |
Nhà Lê, Mạc |
13 |
Lưu Thế Tán |
Thanh Hóa |
Thượng tướng quân; Phương Quận Công |
Nhà Lê Trung Hưng |
14 |
Lưu Thế Chân |
Thanh Hóa |
Thượng tướng quân |
Nhà Lê Trung Hưng |
15 |
Lưu Thế Canh |
Thnah Hóa |
Thượng tướng quân |
Nhà Lê Trung Hưng |
16 |
Lưu Đình Thưởng |
Thanh Hóa |
Quận Công |
Nhà Lê Trung Hưng |
17 |
Lưu Đắc Thái |
Ninh Bình |
Phấn dũng tướng quân |
Nhà Lê Trung Hưng |
18 |
Lưu Bá Vinh |
Ninh Bình |
Đại tướng |
Nhà Lê Trung Hưng |
19 |
Lưu Bá Vĩnh |
Ninh Bình |
Thiên Hộ tướng quân |
Nhà Lê Trung Hưng |
20 |
Lưu Điệt |
Quảng Bình |
Tướng quân Cần Vương |
Nhà Nguyễn |
21 |
Lưu Đức Xứng |
Quảng Bình |
Thượng thư Bộ Lễ, tướng quân Cần vương [22] |
Nhà Nguyễn |