Dưới thời Trịnh-Nguyễn phân tranh từ năm 1558, sau khi Chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) đánh chiếm Nghệ An, lập hoà ước sông Gianh (1648-1687), một cuộc di dân lập ấp cưỡng bức diễn ra. Ông, bà Tổ tiên Họ Lưu - An Hậu thuộc trong nhóm người di dân thời đó.
Người vào định cư đầu tiên ở vùng đất thôn An Hậu thuộc tổng Kim Sơn, huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn thời đó là Ông Lưu Đức Phàn. Một thời gian sau ông Phàn quay về quê miền Bắc (chưa rõ cụ thể), lúc trở vào có vợ chồng ông Lưu Đức Tần và Bà Phạm Thị Khánh cùng đi. Hai người này có quan hệ chú cháu nhưng tuổi tác gần bằng nhau và đều còn trẻ. Khi vào đến đất An Hậu vì ông Phàn đã định cư trước ở vùng Đèo Cây Cốc, nên ông Tần phải định cư ở vùng Bàu Sen là vùng đầm lầy còn hoang hoá thời đó. Hai chú cháu ở gần nhau và bắt đầu thời kỳ xây dựng sự nghiệp họ Lưu đến hôm nay.
Qua nhiều triều đại, họ Lưu dần dần phát triển về nhân lực, kinh tế và có nhiều uy tín trong nhân dân ở khu vực. Đến thời Tây Sơn họ Lưu đã khá giàu, sở hữu ruộng đất cả 2/3 diện tích thôn An Hậu. Nhiều người giữ trọng trách trong hàng ngũ lý, hương ở địa phương. Cũng dưới thời Tây Sơn có một bà họ Lưu được gọi là bà Phó Tướng (có lẽ chồng làm Phó Tướng nên bà cũng được gọi là bà Phó Tướng), không rõ tên mà chỉ còn được nhắc đến do vườn nhà người viết sử này ở có thời gọi là vườn bà Phó Tướng.
Các Cụ còn kể rằng những từ vật, từ khí thờ bà còn truyền lại cho đến những năm 1840-1905. Chúng ta đều biết khi Gia Long đánh bại Tây Sơn thì việc trả thù những người theo Tây Sơn hết sức tàn ác, do vậy không có một văn tích nào còn nói đến bà Phó Tướng và chồng bà là ai, việc thờ cúng bà cũng phải nguỵ trang dưới nhiều hình thức để tránh tai mắt thế gian và chủ yếu là truyền miệng cho đời sau.
Đến thời Tự Đức có ông Lưu Văn Thập là ông Cao của Lưu Xuân Cảnh làm Lý trưởng thâm niên đến 33 năm, người ta hay gọi ông là Xã Thập, mã hiện còn ở Gò Tre, An Hậu. Ông Lưu Văn Bằng làm Đội trưởng (một chức quan trong quân đội). Tuy thời ấy không có ai đỗ đạt cao, nhưng họ Lưu có nhiều người có học thức. Từ thời Tự Đức về sau được biết họ Lưu có các ông giữ các chức lý, hương và giàu tiền của như Xã Sen, Bá Sáu, Bá Tám, Tổng Nhự, Hương Kiểm Khả, Xã Sương, Tổng Diên, Hương Kiểm Diêm, Thủ chỉ Chẫn, Hương Bản Đốc. Từ thời Việt Minh họ Lưu có rất nhiều người làm nghề dạy học, lớp người có thâm niên như Lưu Thanh Vân, Lưu Châu Đốc đã có trên 20 năm giảng dạy.
Họ Lưu lập nghiệp ở An Hậu qua nhiều triều đại, địa danh đã nhiều lần thay đổi, địa thế cũng bị biến đổi theo lẽ tự nhiên của tạo hoá nhưng đã chiến thắng thiên nhiên, thú dữ, bệnh tật và đói nghèo để tồn tại và phát triển. Khi đã giàu có, ông bà lập ra tự đường thờ cúng các bậc tiền nhân, trí đặt nhiều ruộng đất cho việc cúng giỗ gọi là hương hoả và đã lập được gia sử, tông đồ phả hệ các đời để truyền cho con cháu hậu thế. Trải qua nhiều thăng trầm của các triều đại và những biến cố chiến tranh, họ Lưu bị thất lạc các văn tích về phả hệ nên con cháu không được tường tận, nhiều thông tin chỉ còn được nghe qua di ngôn của các bậc lão niên trong và ngoài họ.
THỦY TỔ : LƯU PHƯỚC TẤN có 02 người con là : Cao Tổ LƯU VĂN LANG CHI HỌ I : CÁI CÁ – XUÂN HIỆP – TRÀ ÔN – VĨNH LONG
Chi họ trưởng này hiện nay nối được 11 Đời.
Cao Tổ : LƯU VĂN PHỤNG CHI HỌ II TƯỜNG LỘC – TAM BÌNH – VĨNH LONG (mới sưu tra được thông tin đến Đời thứ Ba)
Tham khảo thêm Lưu gia phổ hệ theo đường dẫn này : http://luugiaphohe.com/images/suky.pdf
Theo GIAPHA.COM
15. HỌ LƯU VIẾT - HỮU HÒA, THANH TRÌ, HÀ NỘI
Họ Lưu định cư tại Hữu Hòa được 19 đời (khoảng 400 năm). Cụ Tổ ông là Lưu Minh Lương, Cụ Tổ bà là Nguyễn Thị Từ Nhất. Gia phả trước đây có đầy đủ, nhưng do bị hỏa hoạn bị cháy mất. Nghe các Cụ trước đây truyền lại, họ Lưu Viết có nguồn gốc từ vùng Đình Bảng, Bắc Ninh (nơi phát tích Nhà Lý - Lý Công Uẩn sinh ra tại đây và gần Thuận Thành, nơi có chi dòng họ Lưu rất lớn của Trạng Nguyên Lưu Thúc Kiệm, thi đỗ năm 1400).
Họ Lưu - Hữu Từ rất đông, gần như cả làng Hữu Từ (có khoảng 800 đinh); họ Lưu - Hữu Hòa chiếm 2/5 dân số của toàn xã; có một Chi tách sang Đồng Chữ, Chương Mỹ, Hà Nội và một Chi vào miền Nam (có thể là họ Lưu Viết tại Mỹ Tho, Tiền Giang, do ngẫu nhiên Ông Vượng đi công tác đã gặp được, nhưng chưa đủ thời gian để làm rõ mối liên kết...).
Lưu Viết Vượng (người biên soạn Tộc phả họ Lưu Viết - Hữu Hòa) giới thiệu.
16. HỌ LƯU - TƯỜNG LAI, PHÚ THÀNH, YÊN THÀNH, NGHỆ AN.
Lưu tộc Đại tôn Tường Lai là một trong 3 chi phái huynh đệ: họ Lưu Hải Thanh (xã Nghi Tiến, Nghi Lộc, Nghệ An); họ Lưu Phú Hậu (xã Diễn Tân, Diễn Châu, Nghệ An); và họ Lưu Tường Lai (xã Phú Thành, Yên Thành, Nghệ An).
Họ Lưu Đại tôn Tường Lai là dòng họ Lưu khá lớn có nhiều đời con cháu hậu duệ và là họ Lưu duy nhất sinh cư tại huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Nhà thờ họ Lưu Đại tôn Tường Lai được khởi thủy xây dựng từ đầu thế kỷ XIX.
Nhà thờ họ thờ Côn Sơn Thánh Nương “Nhân Thần hóa Thiên Thánh”, được triều Lê Trung Hưng ban Sắc “Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần”;
Thờ các đời Thủy tổ dòng họ, trong đó có nhiều người có công với dân với nước trong các triều đại cũng như trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỷ XX.
Họ Lưu Tường Lai có nguồn gốc từ huyện Hưng Nguyên (xã Hưng Đạo), Nghệ An.
- Ông Tổ cao đời nhất được thờ tại nhà thờ tổ là Ông Kiêu ;
- Tiếp đời sau là Ông Tổ Lưu Đình Phúc; ông Lưu Tịnh Quang; ông Lưu Tiến Tài;
- Ông Tổ … (chưa rõ tên);
- Ông Tổ Lưu Đắc Thành…
* Ông Tổ Lưu Đắc Thành - Ông sinh khoảng cuối thế kỷ XVII, cuối đời vua Lê Huyền Tông - niên hiệu Cảnh Trị. Ông là người khai cơ trang ấp, lập ra Trang Chòi (sau đổi thành thôn Tường Lai); ông là Thủy tổ lập ra họ Lưu tại Tường Lai;
Ông Lưu Đắc Thành có công khai khẩn đất đai, chiêu dân lập trang ấp, ông được thôn Tường Lai vinh danh là “Hậu Thần”, được phối thờ tại đền thờ Thành Hoàng Bản Xứ thôn Tường Lai;
Ông Lưu Đắc Thành là một trong các vị sáng lập Văn Hội thôn Tường Lai, được Văn Hội vinh danh “Hậu Hiền”, được thỉnh thờ tại Nhà Thánh Văn Hội (Nhà Thánh thờ Đức Thánh Khổng Tử).
Dị hiệu Ông Tổ Lưu Đắc Thành là “Thủy tổ khảo tiền di kỳ thọ/kiêm Trùm trưởng/bản thôn Hậu Thần/Văn thân hội Hậu Hiền/Lưu quý công tự Đắc Thành/thụy mẫn trực/Thần vị”.
Ông Tổ Lưu Đắc Thành có 2 người em ruột, đến nay vẫn chưa có tin tức về hậu duệ:
- Ông Lưu Đình Tiến, vợ là Đỗ thị Chiêm;
- Ông Lưu Đình Sắc, vợ là Đỗ thị Truyền.
Các ông sinh vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII.
Ông Tổ Lưu Đắc Thành còn có người con trai thứ 6, hiện nay vẫn chưa rõ hậu duệ ở đâu, đó là ông Lưu Đình Diện, ông sinh khoảng giữa thế kỷ XVIII, vợ ông là Bùi thị Mệnh; theo Gia phả thì ông xuất cư ra Thanh Hóa…
* Ông Lưu Đình Cơ - Ông sinh khoảng đầu thế kỷ XVIII, là con trai thứ 5 trong 6 người con trai của Thủy Tổ Lưu Đắc Thành; trong thời Vua Lê - Chúa Trịnh, Đình Cơ xung vào quân đội, ông có công dẹp loạn Hoạn quan, đánh dẹp nạn cướp bóc, bảo vệ ngai vàng vua Lê, bảo vệ dân cư yên ổn làm ăn, ông được thăng hàm cấp Tướng, được nhà Lê Trung Hưng ban sắc “Bách Hộ - Chánh lục phẩm”; tại quê nhà thôn Tường Lai, Anh linh Tướng quân được vinh danh “Hậu Thần”, được phối thờ tại đền thờ Thành Hoàng Bản Xứ của làng.
Dị hiệu của Tướng Quân là “Tổ khảo tiền Lê triều Cai Hợp phủ Chúa/Bách Hộ Phấn lực Tướng quân/bản thôn Hậu Thần/thọ lão/húy Đình Cơ/Thần vị!”
* Ông Lưu Chiếu (Lưu Xuân Chớu):
Ông Lưu Chiếu sinh năm Nhâm Thìn (1892), thuộc đời thứ 6 của Thủy Tổ Lưu Đắc Thành; trong thời Nhà Nguyễn, ông là vị Quan tư pháp vừa nghiêm minh, vừa công minh, ông được Triều Nguyễn ban sắc “Tòng Cửu phẩm - Bách Hộ”.
* Ông Lưu Xuân Giản
Ông Lưu Xuân Giản sinh năm Canh Tý (1900); thuộc đời thứ 8 của Thủy Tổ Lưu Đắc Thành; trong Cao trào CM năm 1930-1931 và Xô Viết Nghệ-Tĩnh, Lưu Xuân Giản là UV Ban CH đầu tiên Huyện đảng bộ Đảng CS VN huyện Yên Thành, Nghệ An; sau cuộc biểu tình ngày 7/11/1930, do ông dẫn đầu, tại Cầu Muống Tường Lai, ông bị thực dân Pháp bắt và bị xử bắn… Liệt sĩ Lưu Xuân Giản được truy tặng “Lão thành Cách Mạng”. Tên tuổi Liệt sĩ Lưu Xuân Giản đã được khắc ghi vào Bia đá Đài Tưởng Niệm 72 Liệt sĩ Xô Viết Nghệ Tĩnh tại làng Trụ Pháp (Mỹ Thành, Yên Thành, Nghệ An), Di tích Liệt sĩ quốc Gia năm 1990.
Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, họ Lưu Tường Lai có 12 Liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc; được Nhà nước truy tặng 03 vị “Lão thành Cách mạng”; 02 “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”…
Tại Nhà thờ họ Lưu đại tôn Tường Lai, đang lưu giữ Gia phả dòng họ và nhiều cổ vật quý; Sắc phong và vật chứng Sắc phong các triều đại.
Việc dòng họ đang lưu truyền những nghi thức tế lễ kiểu cổ từ đời này qua đời khác, đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên nét văn hóa tâm linh mang đậm bản sắc dân tộc nói chung và vùng quê Xứ Nghệ nói riêng, góp phần bảo lưu và gìn giữ những giá trị văn hóa phi vật thể mà cha ông đã dày công sáng tạo…
Hậu duệ họ Lưu Tường Lai đang gìn giữ và không ngừng phát huy truyền thống Tổ tông…
17. HỌ LƯU - DƯỠNG MÔNG, QUẾ XUÂN 1, QUẾ SƠN, QUẢNG NAM
Quá trình hình thành và phát triển Tộc Lưu Văn - làng Dưỡng Mông (*), xã Quế Xuân I, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam:
Vào khoảng nửa sau thế kỷ XV, chế độ phong kiến tập quyền ở Việt Nam phát triển đến mức thịnh đạt, nước Đại Việt là một quốc gia hùng cường ở Đông Nam Á. Nhà Lê thi hành chính sách đối ngoại mềm mỏng nhưng kiên quyết trên lập trường bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của đất nước. Được nhà Minh ủng hộ, Trà Toàn là vua Chăm-pa lúc bấy giờ cho quên kéo ra đánh chiếm Hóa Châu. Vua Lê Thánh Tông quyết định thân chinh trừng phạt. Sau chiến thắng Trà Bàn năm 1471, vua Lê Thánh Tông cho nhân dân vào Thuận Hóa và Quảng Nam để khẩn đất lập nghiệp. Đây là đợt di dân lớn nhất vùng đất Quảng Nam trong thời lịch sử trung đại Việt Nam.
"Những lớp lưu dân “Bắc địa tùng vương” hồi cuối thế kỷ XV đến Quảng Nam gồm nhiều tộc họ ở các tỉnh phía Bắc như Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Dương, Cao Bằng…, trong đó Nghệ An là tỉnh có số lượng nhiều hơn cả, chiếm trên 33%"
(Theo Tiến sĩ Trần Công Bá - trích dẫn “Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã ở Bắc Quảng Nam từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII” - Luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử . Mã số: 5.03.15 năm 1996)
Trong dòng người Nam tiến đó, có Ngài Lưu Quý Công, húy là An, tự là Tứ. Nguyên gốc Ngài là người ở thôn Sung Mỹ, xã Quả Phẩm, tổng Tam Đa, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Thọ, tỉnh Nghệ An (trích dẫn theo lời ghi trong Tộc phả tộc Lưu Văn). Cùng thời với Ngài, có các Ngài thủy tổ tộc Nguyễn, Trương, Đinh; họ hợp lực cùng nhau, bất chấp ác dịch, chướng khí, khẩn hoang xây dựng làng mạc và trở thành 4 tộc Tiền hiền: Lưu - Nguyễn - Trương - Đinh của làng Dưỡng Mông, tổng Xuân Phú, huyện Quế Sơn trước đây (nay thuộc xã Quế Xuân 1, huyện Quế Sơn).
Các lớp hậu duệ của Ngài đã có nhiều công trạng đóng góp vào công việc xây dựng làng xã, phụng sự đất nước như các Ngài Lưu Văn Tường (đời thứ 7) có công khai khẩn hoang điền; Ngài Lưu Văn Toán, Lưu Văn Vân (đời thứ 8) đều làm đến chức Tham tri hương sự, dời sức dân, khai hoang lập ấp. Riêng Ngài Lưu Văn Vân đã cùng với các Ngài Tiền hiền của làng khai khẩn cho làng được 717 mẫu đất (theo tờ khai Tiền hiền - Trường Viễn Đông Bác Cổ - Khảo cứu về lịch sử các Tiền hiền thuộc xứ Trung kỳ); Ngài Lưu Văn Trí (đời thứ 8) có công được vua Gia Long phong chức Hãn Đức Hầu vào năm Gia Long thứ 15 (1816); Ngài Lưu Văn Thọ (đời thứ 10) ứng khoa Hiền Lương triều Tự Đức, mộ dân lập xã, gây dựng được hai làng Mậu Chánh quận Duy Xuyên và làng Long Phước thuộc tổng Chiên Đàn, huyện Hà Đông (nay là thành phố Tam Kỳ).
Vào vùng đất mới Quảng Nam, khởi thủy từ Ngài Lưu Văn An, đến nay đã sinh hạ con cháu đến đời thứ 16 gồm 3 phái. Từ địa bàn định cư ban đầu làng Dưỡng Mông, đến nay con cháu của Ngài đã làm ăn sinh sống trên mọi miền đất nước kể cả nước ngoài.
Theo luuvantoc.org
18. HỌ LƯU - NGUYỆT ÁNG, ĐẠI ÁNG, THANH TRÌ, HÀ NỘI
Nguyệt Áng (làng Nguyệt) là làng quê chiêm trũng nhỏ bé thuộc xã Đại Áng, huyện Thanh Trì. Đây là một làng cổ, có từ thời Hùng Vương dựng nước. Tuy là làng chiêm trũng nhỏ bé, nhưng thời phong kiến, Nguyệt Áng nổi danh là làng khoa bảng với 11 người đỗ đại khoa, gồm 1 Trạng nguyên, 1 Thám hoa, 9 Tiến sĩ, trong đó có: người họ Lưu là Lưu Tiệp (1772) và em ruột (Lưu Định - 1775) cùng cháu nội là Lưu Quỹ (1835).
Làng còn có 29 người đỗ trung khoa (hương cống, cử nhân) trong đó có: 8 người họ Lưu. Trong những người đỗ đạt của làng Nguyệt, nhiều người thật sự có tài, đem hết tài năng phụng sự đất nước. Có 3 người tiêu biểu nhất trong đó có người thứ ba là Lưu Quỹ (1811 - ?). Ông nổi tiếng ông là người thẳng thắn, dám tâu việc can ngăn vua nên bị giáng chức. Tháng 2 năm Tân Sửu (1841), Vua Thiệu Trị lên ngôi, Lưu Quỹ đã cùng Khoa đạo Nguyễn Bỉnh Đức dâng sớ khuyên Vua lưu ý đến 10 điều sách lược trị nước, trong đó, 2 điều được vua tâm đắc nhất là thận trọng trong sự ham chuộng và cẩn thận trong dùng người.
Trích bài : "Làng Nguyệt Áng" của TS. Bùi Xuân Đính
19. HỌ LƯU DANH - LIÊN SƠN, GIA VIỄN, NINH BÌNH
Từ Thủy tổ nói dõi tông đường hiên nay đã đến Đời thứ 13 gồm có : 909 gia đình với 1399 nhân khẩu. Các ngày lễ giỗ: Tế Xuân 20/12 Âm lịch (Ngày giỗ Thủy tổ) và Ngày Hội mã: mồng 5/3 Âm lịch gặp gỡ anh em trong Họ.
Địa chỉ thông tin liên lạc: 1. Lưu Danh Thêu, 2. Lưu Danh Liệu (0303.868598, 043.7752020, Fax: 043.7751712), 3. Lưu Danh Hiền (0303.868524), 4. Lưu Danh Doanh (0912.750102), 5. Lưu Danh Lâm (0125.5862949),
- Lưu Danh Ngọc: Địa chỉ Trường Đại học Tổng hợp Kalmuc - Liên Bang Nga ĐT: 007.9613950671 Email: luuthanhngoc@gmail.com
20. HỌ LƯU ĐẮC - QUẢNG THƯỢNG, XÃ YÊN THẮNG, YÊN MÔ, NINH BÌNH
Hiện có 15 đời. Thủy Tổ là Cụ Lưu Đắc Thọ. Theo các Cụ cao niên trong dòng họ kể lại Cụ Thủy Tổ của Họ Lưu Đắc đã cùng với các Họ Tạ, Phạm... về xứ đất này khai hoang lập ấp, nên trong Đình làng có bài vị Họ Lưu được thờ cúng. Đời thứ 6 có Cao tổ Lưu Đắc Thái là tướng quân nổi danh thời Nhà Hậu Lê có công trấn giữ Biên cương, được phong là Phấn Dũng Tướng Quân, Hiệu lệnh tư Tráng sỹ, được hưởng lộc Bách Hộ, được hai lần ban sắc phong (Cảnh Hưng và Khải Định). Đặc biệt được Vua Lê ban cho bài lễ “Thiên đức khai công”:
Lưu gia khai sáng tự nguyên niên
Sinh thành mưu duệ tại lâm điền
Long ly quy phượng thiên niên định
Phúc thọ khang minh tổ khởi nguyên
Nhật thăng nhị chức Lê triều tặng
Kim phát bát chi quảng phả biên
Bách hộ trùng tu lăng miếu lập
Công đức tiền nhân đăng kế truyền.
“Lưu Đắc Thái vinh” – khắc trên khu lăng mộ.
Hiện nay con cháu Họ Lưu Đắc có khoảng 180 hộ, phần lớn sinh sống ở quê, một phần đã còn lại thoát ly đi công tác hoặc làm ăn ở nơi xa, như Đồng Nai, Hải Phòng, Tp Ninh Bình..., nhiều người đã thành đạt trong quan trường, binh nghiệp, kinh doanh (như Ông Lưu Đắc Tại, PGĐ Sở XD Ninh Bình, Đại tá Lưu Đắc Thụy, Lưu Đắc Ngọc...).
Nhà thờ Họ Lưu Đắc – Quảng Thượng được UBND tỉnh Ninh Bình cấp Bằng Di tích cũng là niềm vui chung của cả Lưu Tộc Việt Nam.
21. HỌ LƯU - AN BÌNH, NAM SÁCH, HẢI DƯƠNG
Ngài Lưu Phúc Dũng - là Thủy tổ của Họ Lưu Quang ở làng An Ninh, xã An Bình, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Giỗ Tổ vào ngày 20/11 Âm lịch hằng năm. Từ Đời Ngài Thủy Tổ đến nay đã nối dõi tông đường được 14 thế hệ hậu duệ. Hiện nay Trưởng tộc: Ông Lưu Văn Vần, sinh năm 1949, ĐT: 0983.180.649. Emal: Mr.quang van@yahoo.com Tại địa phương này còn có 4 Họ Lưu: Lưu Văn, Lưu Hữu, Lưu Đình, Lưu Đăng.
Họ Lưu Quang ở làng ta
Đông chí tế Tổ ấy là chớ quên
22. HỌ LƯU TIẾN - HÒA XÁ, ỨNG HÒA, HÀ NỘI
Lễ Tế Xuân: Mùng 3 Tết
Lễ Tế Thu: Mùng 3 tháng Giêng
Lễ chạp mã : 30/12 Âm lịch
Địa chỉ liên hệ: Lưu Tiến Đạt - Xóm Vực, Hòa Xá - ĐT: 0939169333
Email : happy.line333 ở gmail.com
23. HỌ LƯU QUÝ CÔNG (LƯU PHÚC), GIANG LÀNG, ĐỒNG TIẾM, ỨNG HÒA, HÀ NỘI
- Cao Tổ: Cao Cao Tằng Tổ Khảo Lưu Quý Công tự Phúc Chính
- Giỗ Tổ: 26/12 ÂL
- Số đời (đến năm 2017): 13
- Trưởng họ (đến năm 2017): Ông Lưu văn Lương
- Gồm 02 chi: Với 200 gia đình, 900 nhân khẩu.
Địa chỉ Thông tin liên lạc:
- Trưởng họ Ông lưu Văn Lương.
- Trưởng chi hai Ông Lưu Văn Toàn thôn Giang làng, xã Đồng Tiến, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội .
- Ông Lưu Huy Triệu số 8/325/82 Thanh Lương, Hai Bà Trưng, TP Hà Nội - ĐT 0913.573.481, Email : Luuhuytrieu54@yahoo.com
* Ghi chú: Danh sách các DÒNG HỌ LƯU - VIỆT NAM này, sẽ còn tiếp tục cập nhập bổ sung, điều chỉnh khi nhận được thông tin của dòng họ Lưu ở các địa phương gửi về hoặc do Ban Liên lạc Lưu Tộc Việt Nam sưu tầm tổng hợp.