Nhà thơ Lưu Thị Bạch Liễu
Cuộc thi thơ tình năm 2006-2007 của báo Văn Nghệ, Lưu Thị Bạch Liễu được giải A với 3 trong số 5 bài thơ dự thi. Trong tập Thơ tình tuyển chọn năm 2007 của nhà xuất bản Hội nhà văn, Lưu Thị Bạch Liễu là một ẩn số. Không có ảnh, không có năm sinh, và cả không một dòng địa chỉ. Bây giờ trong tập thơ Cõi tôi của nhà xuất bản Hội nhà văn cũng vậy. Mặc dù chẳng khó khăn gì khi in một tấm hình, một vài dòng sơ lược về bản thân, hoặc nhiều hơn nữa là số điện thoại, địa chỉ email. Nhưng với tác giả Bạch Liễu, không có một thông tin nào khác. Phải chăng, tác giả muốn người đọc chỉ hình dung chị qua thơ, và chỉ thơ mà thôi. Bởi vì thơ là sự phản ánh chân thực nhất, là tấm gương soi của hồn người, như Hàn Mặc Tử từng viết: Người thơ phong vận như thơ…
Có thể thấy rằng trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu thể hiện là một người phụ nữ thích một mình, thích kín đáo, lặng lẽ độc hành. Nhiều tên bài thơ phản ánh đặc điểm này : Độc hành, Cõi tôi, Tự khúc (1,2), Không ai đùa sóng với tôi, Một mình (1,2,3).
Những câu thơ của chị càng thêm rõ:
Một mình trên đường Đông […]
Một mình trên đường Sương
bước từ mờ mịt
vào mịt mờ
gió vội đi đường của gió
tôi trên đường của tôi
Cõi tôi
Lặng ngàn xanh tôi đợi
Thầm hóa đá mồ côi
Du xuân 2
Ta hãy đến vào ngày sinh nhật của nhà thơ thì càng rõ:
Không rượu
không nến
không hoa
chỉ một người nhớ
đang xa
Sinh nhật
Chính cái tình trạng một mình, tình trạng cô đơn cho phép người ta chìm vào trong cõi lặng, thăng hoa lên cõi lạ, đạt được sự tự do tuyệt đối ở cõi tôi trong suy tưởng, ngẫm ngợi, nhớ thương, mơ ước và mong đợi.
Nhà thơ có rất nhiều tâm trạng và khát khao. Người ta thấy chị cô đơn, cô đơn đến tột cùng :
mình tôi lẻ bóng […]
tôi một mình không bóng […]
tôi đến nơi nào
cũng thừa tôi cả
Tự khúc 1
Từ lẻ bóng đến không bóng là thêm một chặng dài cô đơn. Lẻ bóng thì vẫn còn cái bóng để mà tựa vào, để mà trò chuyện. Không bóng là chỉ còn trơ trọi một bản ngã, đến cái bóng cũng không có. Và cái tôi ấy đến nơi nào cũng thừa ra cả thì cảm giác cô lẻ mới đạt đến tuyệt đối vì sự cô đơn ấy ở giữa chốn đông người. Không rõ đây có phải là trạng thái hay là sự mong ước khá lạ lùng :
đôi mắt tôi không ngủ
sáng thành hai vì sao
hai vì sao không ngủ
cháy mãi một nơi nào
Tự khúc 1
Rồi chị mong được thành đá mồ côi, mong được cháy:
người như dòng sông biếc
qua nguồn đổ về xuôi
lặng ngàn xanh tôi đợi
thầm hóa đá mồ côi
mong một lần được cháy
dẫu tàn tro suốt đời
Du xuân 2
Chị thú nhận tình trạng bỏng khát một hồn sông, một tình yêu lãng mạn:
Mỵ Nương em bỏng khát
chao nghiêng chén bạch đàn
chỉ vục được xác nước
hồn sông đã vụt tan
Sông Cầu
Chị đồng cảm với người đàn bà … đầy biết ơn / chút dịu dàng hiếm hoi của chồng mình, khao khát được hóa thành cây để đón nhận một chút quà tặng của thiên nhiên, làm ra một nụ cười:
khao khát hóa thân thành cây
được mở lòng đón
chút dịu dàng mưa
chút chói chang nắng
chút heo may lành lạnh
muôn mắt lá
hắt ra một nụ cười
Đợi 1
Cái nỗi khát thèm dưới đây dù chứa đầy mâu thuẫn, nhưng chúng ta có thể tin là thật vì nó là trạng thái “không rành mạch” thường gặp ở người thơ ( chữ của Nguyễn Duy : tôi vốn không rành mạch bao giờ):
chẳng thể hóa một ngọn núi phía Thượng Lâm
vẫn thèm trở lại Na Hang
ngồi bên một người
đã từng thề
không bao giờ gặp lại
Thèm trở lại Na Hang
Người đọc sẽ gặp một trái tim đã khép ( Một lời tiễn biệt), trái tim hóa chim trời vỗ nắng (Một chiều mưa giăng), đôi mắt khép (Tự khúc 2), bài hát ru “ chỉ là hai tiếng à ơi…dang dở” ( Hát ru), trạng thái vô cảm “ không còn nỗi đớn đau…không còn nỗi tái tê…không còn nỗi trống rỗng”, ( Sông nhìn tôi nhìn sông) những nỗi buồn thẳm sâu hay phảng phất (Không nỗi buồn nào buồn hơn nỗi buồn nào)…Cô đơn, khao khát, kiêu hãnh, bền bỉ, dứt khoát…tầng tầng tâm trạng là Lưu Thị Bạch Liễu của cõi tôi.
Một đặc điểm nổi trội của tập thơ là có một thế giới tự nhiên vừa thân thiện, vừa hòa đồng, nhưng cũng nhiều khi tương phản luôn luôn đồng hành cùng nhân vật trữ tình. Phải chăng vì con người độc hành đó vẫn cần và khát thèm bè bạn, nhưng cái người nhớ sinh nhật đang xa, người bao năm khảm khắc thì đang ở phương nào, người yêu thì vì sự kiêu hãnh “không gọi” (người yêu I), hoặc dù đã hẹn mà hình như chưa làm, chưa thực hiện, những người khác cũng khó sẻ chia “cõi tôi”. Mặt khác, chính tác giả cũng thấy rằng thế giới thật bình yên, thật nhỏ hẹp, khép kín, đồng nghĩa với “ tôi đang tự hủy diệt tôi” ( Một chiều nào tôi không trở dậy). Vì thế mà thiên nhiên luôn luôn có mặt? Chỉ biết rằng thường thường, chỉ có thể gặp trong thế giới trẻ thơ những sự vật thiên nhiên có linh hồn, nghĩ suy, trò chuyện như người trong quan niệm dân gian vạn vật hữu linh. Trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu, thiên nhiên hoạt động như người. Đây không chỉ đơn thuần là biện pháp nghệ thuật nhân hóa, mà nó như là một tất yếu, nó là một phần của tâm hồn thi nhân.
Đống lửa đốt đồng run vì lạnh ( Cõi tôi)
Đóa quỳnh tàn tái tê:
không còn nỗi tái tê
của đóa quỳnh tàn sớm mai
nhận ra không ai biết đêm qua mình nở ( Sông nhìn tôi nhìn sông)
Con đường rên lên vì nhát chổi ( Tôi, con đường và cây chổi)
Đất gọi ơi hời dưới chân ( Độc hành)
Lá khóc : bao nhiêu là mắt lá
khóc với nhau trên cành ( Một mình 1)
Đóa hoa nhỏ lệ : Những đóa hoa nhỏ lệ giữa đêm
vì chúng biết sức nóng và sự dịu dàng
của ngày mai
không thể nào còn giống ngày hôm nay
( Không nỗi buồn nào buồn hơn nỗi buồn nào)
Mây và núi mải ôm nhau
Sông Lô hổn hển đuổi theo…
(Gửi Hà Giang)
Rồi Thác Mơ day dứt, cây cọ hát, liễu xanh xõa tóc, màn sương trắng nhắc, mưa nói với ngôi nhà, con suối nhìn, cây lá ngước theo, nhà sàn ngủ yên, đồi chè he hé mắt non… Hai mươi bài trong tổng số ba mươi tư bài có thiên nhiên cụ thể thành con người như thế. Vì vậy mà các cuộc “giao lưu” của nhà thơ với thiên nhiên, với bạn đọc luôn thay đổi, bất ngờ, mới mẻ.
Một điều đáng nói là có một kiểu tư duy và diễn đạt thơ mới lạ, không giống bình thường. Hầu hết thơ Lưu Thị Bạch Liễu là thơ tự do. Chỉ một bài có nguồn lục bát, nhưng lại cũng được trình bày theo kiểu tự do (Độc hành). Các câu thơ, dòng thơ của Lưu Thị Bạch Liễu thường là ngắn, rất ngắn. Đó là những kiểu câu thơ in dấu ấn riêng. Chúng ta đều biết câu thơ nổi tiếng:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Xuân Diệu- Giục giã
Nhưng Lưu Thị Bạch Liễu diễn đạt khao khát ấy theo kiểu khác hay chính xác hơn là theo cách mới của riêng mình:
lặng ngàn xanh tôi đợi
thầm hóa đá mồ côi
mong một lần được cháy
dẫu tàn tro suốt đời
Du xuân 2
Trong bài Sông nhìn tôi nhìn sông, ngay nhan đề cũng đã nhòe mờ nghĩa. Sông nhìn ai? Có phải sông nhìn tôi và tôi nhìn sông ( chúng tôi trực tiếp nhìn nhau)? Sông nhìn tôi và tôi nhìn cái nhìn của sông ( một trong hai đối tượng gián tiếp khi chúng tôi cùng nhìn)? Sông nhìn đâu đó, tôi thì nhìn sông ( cái nhìn bắc cầu)? Và một loạt câu hỏi : Ai không còn nỗi đớn đau ? Tôi không còn? Sông không còn? Cả hai không còn? Vì sao lại không còn?... Đó là những ẩn số mà người đọc phải tự mình tìm lấy. Và vì vậy mỗi người sẽ có lời giải và cảm nhận riêng.
Cũng như vậy về bài Gửi Hà Giang. Tại sao một người bạn cố thuyết phục rằng đàn ông Hà Giang trầm như núi cuồng nhiệt như dòng chảy mà người viết lại không thấy thế : “tôi chỉ thấy đàn ông Hà Giang lạnh hơn gió đông trên đỉnh Mã Pì Lèng” . Và thật bất ngờ là sông Lô hổn hển đuổi theo dặn “ đừng quên tình người Hà Giang như cây trên đá bám rễ rồi là xanh đến muôn sau”. Liệu người thơ về xuôi có tin , có nhớ lời dặn ấy? Lại cũng là một tình huống bỏ lửng, để thơ còn gợi nghĩ, gợi cảm, gợi dư ba…
Tác giả cũng khá sành khi sử dụng các điệp ngữ, tương phản. Ví dụ ở trong bài “ Không ai đùa sóng với tôi”. Chị đưa ra một loạt các tính từ trạng thái rộng lớn, sôi động để rồi đối lập với sự thiếu vắng, cô đơn:
mênh mang biển
mênh mang trời
trùng trùng ngàn mây ngũ sắc
nhộn nhịp đàn cá khoe vây
chộn rộn bầy tôm búng nước
không ai đùa sóng với tôi.
Một số bài thơ có sự tiết kiệm từ ngữ ở mức tối đa, tạo ra một trật tự cú pháp lỏng lẻo, mở ra trường liên tưởng rộng rãi, gần với bất định. Chẳng hạn:
Mưa
giữ lại ở Na Hang
nghe thác Mơ
xối lòng hồ
day dứt
sông Gâm
hòa làm gì vào sông Năng!
Na Hang
Ai day dứt? Mưa day dứt? Thác Mơ day dứt? Lòng hồ day dứt? Sông Gâm day dứt? Nhân vật trữ tình day dứt? Không rõ ràng. Nhưng hình như chính vì thế mà có sự cộng hưởng day dứt, làm nên ám ảnh khôn nguôi.
Cách quan sát cảnh vật của tác giả cũng làm cho lời thơ hấp dẫn, mới mẻ:
con đường như cây cầu
nối từ chơi vơi này
sang chới với kia
một mình trên đường Sương
bước từ mờ mịt
vào mịt mờ
Cõi tôi
nhìn mưa lăn trên mái nhà của mẹ
lăn qua chín bậc cầu thang thành dòng sông nhỏ
chảy một đời không tới nổi bình yên.
Người yêu 2
em ngắm nhìn anh bằng đôi mắt khép
thấy phía trước dằng dặc một con đường
Tự khúc 2
Ở trên đã nhắc đến thiên nhiên tương đồng và tương phản đồng hành cùng người thơ. Đây là một ví dụ về hiệu quả nghệ thuật diễn đạt có tương đồng, tương phản và vừa tương đồng vừa tương phản:
phố mờ trong mưa
em mờ trong nhớ […]
phố đen chiều mưa
em trắng đêm nhớ […]
mặt trăng mải theo trái đất
bao buồn vui
lúc khuyết
lúc tròn
em cả đời quay quanh ảo mộng
chưa một lần mỏi mệt như trăng
Đợi 2
Nếu có thể nói về hạn chế của Cõi tôi thì chính là ở chỗ tác giả tô đậm và khai thác triệt để cõi tôi, thành ra cái phần ngoài cõi tôi không được thể hiện đầy đủ và có phần mờ nhạt. Cái tôi là quan trọng, song nếu chỉ có thế thì cũng không có gì phải bàn nhiều, dù là cách thể hiện cái tôi có nhiều mới mẻ. Nhưng Lưu Thị Bạch Liễu còn trẻ:
mùa hạ tôi nhan sắc tuổi ba mươi
rừng rực cháy đến từng chân tóc
Về một bài thơ tôi đã lãng quên
Trong những cõi khác tiếp theo của hành trình sáng tạo, với sức trẻ, sự tự tin Lưu Thị Bạch Liễu chắc chắn sẽ còn gây không ít ngạc nhiên.
17/5/2009