Ngày Tết là ngày quan trọng nhất trong năm nên người dân nơi đây ngoài việc đến thăm nhau, chúc nhau những lời tốt đẹp trong năm mới với những người đang sống thì họ cũng thắp nén nhang tưởng nhớ những người đã khuất mà phương ngữ thường gọi là “mừng tuổi ông, bà”.
Hằng ngày chúng ta thường nghe nói thờ cúng “Cửu huyền, thất tổ” nhưng cũng không ít người hiểu được bốn từ này. Theo giáo sư Lê Mạnh Thát trong cuốn “Toàn Tập Minh Châu Hương Hải” (Nhà Xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 2000) giải thích như sau:
- Cửu huyền (chín đời) gồm: “Cao, tằng, tổ, cha, mình, con, cháu, chắt, chít”. Như vậy, tính từ bản thân người thờ được phép thờ trên họ bốn đời (cha, ông, cố, cao) và thờ dưới họ bốn đời (con, cháu, chắt, chít).
- Thất tổ (trên người thờ bảy đời) gồm: “Cao, tằng, tổ, cao cao, tằng tằng, tổ tổ, cao tổ”. Đạo Phật thường gọi là cha, mẹ bảy đời. Trong bảy đời này người thờ chỉ được thờ ở nhà mình bốn đời gồm (cha, ông, cố, cao), các đời lớn hơn được thờ vào Nhà thờ của dòng họ gọi là nhà thờ Từ đường. Những người đã được thờ vào Từ đường gọi là “Ngài” và không cúng giỗ theo ngày họ mất mà được con cháu của cả dòng họ cúng chung vào những ngày rằm lớn như rằm tháng 2, tháng 7, tháng 8 âm lịch và các ngày Tết.
Trong ngày Tết người dân các địa phương này thường soạn những lễ vật, mâm cỗ để cúng các lễ gồm:
1/ Các lễ cúng trong gia đình:
- Lễ tất niên: là lúc con, cháu hai bên nội, ngoại tề tựu về vào những ngày cuối năm để cúng Tổ tiên đồng thời mời Tổ tiên về nhà ăn tết. Đối với người sống đây là dịp để họ thăm nhau, đúc kết những công chuyện làm ăn sau một năm. Lễ gồm một mâm cơm cúng gia tiên.
- Lễ đón giao thừa (lễ đầu năm): gồm cỗ xôi, gà trống lễ, bánh, trái…đặt lên bàn thờ tổ tiên. Đúng thời khắc giao thừa, sau khi gia chủ cúng lễ, cầu nguyện phù hộ, độ trì cho con cháu được sống thọ, làm ăn phát đạt thì tất cả con cháu trong gia đình đều đến trước bàn thờ lạy tổ tiên, ông bà để tưởng nhớ công ơn của họ. Sau đó là những lời di huấn đầu năm của cha, mẹ như khuyên răn con cháu cố gắng siêng năng học tập, làm ăn, sống tốt cho gia đình và xã hội; phát lộc, phát tài (tiền lì xì) đầu năm cho tất cả các thành viên trong gia đình. Riêng con cháu đang còn học tập, tuỳ theo thành tích trong học tập mà được nhận tiền lì xì nhiều hay ít - đây cũng là động lực để giúp con cháu thi đua học tập trong năm tới. Xong lễ con cháu lại quây quần bên mâm cỗ để ăn uống và gọi điện thoại chúc mừng người thân ở xa không về được.
- Lễ cúng giữa trời (chiến sỹ trận vong, những người không nơi nương tựa): gồm một mâm cơm, xôi, gà lễ, bông trái, cháo, nổ và giấy áo, giấy tiền, vàng, bạc… được cúng ở sân hoặc ngõ. Ý nghĩa của lễ ngày là nhường cơm xẻ áo, lá lành đùm lá rách cho những vong hồn đã mất, không ai thờ cúng, chiến sỹ trận vong không biết đường về; cầu nguyện họ giúp cho gia đình được bình yên, không ai quấy rối, công việc làm ăn được suôn sẻ.
- Lễ cúng đất: quan niệm rằng đất có thổ địa, sông có hà bá nên người dân vùng này cúng thổ thần, đất đai nơi mình đang ở để cầu mong bình yên. Lễ vật gồm hương hoa, xôi, gà lễ, một mâm cơm và giấy áo dùng cho lễ cúng đất.
- Lễ cúng chuồng: đây là đặc trưng văn hoá nông nghiệp của người dân vùng Bình -Trị -Thiên nhằm cầu mong việc chăn nuôi của gia đình trong năm tới được nhiều may mắn, các vật nuôi không đau ốm, đạt hiệu quả kinh tế cao. Lễ vật gồm một mâm cơm, giấy áo, vàng, bạc được dùng cho lễ cúng chuồng, đặt cạnh chuồng các vật nuôi để cúng.
- Lễ cúng bếp (đưa ông táo): Lễ này thường được người dân Việt Nam cúng vào ngày 23 tháng chạp âm lịch nhưng ở Bình - Trị - Thiên người ta cúng vào dịp Tết cầu mong được bình an cho gia đình trong chuyện bếp núc, không xảy ra hoả hoạn… Lễ gồm một mâm cơm, giấy áo, vàng bạc và một cái kiềng ba chân bằng đất dùng cho lễ cúng bếp, đặt cúng ngay tại bếp nấu ăn của gia đình.
- Lễ cúng đưa: Sau khi mời Ông Bà, Tổ tiên về nhà ăn Tết trong lễ cúng tất niên, các gia đình lại làm cỗ cúng đưa người thân về trời sau khi ăn Tết với con cháu. Lễ này thường cúng vào ngày mồng 4 Tết với một mâm cơm và lễ vật như giấy áo, giấy tiền, vàng, bạc…
2/ Các lễ cúng ở nhà thờ Từ Đường: Từ đường là nơi thờ cúng Ngài Thuỷ Tổ của dòng họ. Các vị con, cháu, chắt… của Thuỷ Tổ nhưng tính từ người thờ đời thứ 5 trở đi trong thất tổ sẽ được thờ ở nhà Từ Đường, đây cũng là nơi thờ tất cả các con cháu của dòng họ không có người thân thờ cúng (vô tự).
Một lễ cúng ở nhà thờ Từ Đường trong ngày Tết (Ảnh. Q.Hiếu)
- Lễ cúng tất niên: Căn bản như lễ tất niên ở gia đình, chỉ khác là con cháu của nhiều gia đình trong dòng họ tập trung về cúng lễ mời tổ tiên về ăn Tết. Dịp này cũng là cơ hội cho bà con dòng tộc thăm nhau vì không có điều kiện đến thăm từng nhà trong ngày Tết; ôn lại những kỹ niệm, công việc làm ăn trong năm; tổng kết quỹ của dòng họ và phát thưởng cho con em các gia đình học giỏi, có nhiều thành tích trong học tập. Quỹ khuyến học của dòng họ là nguồn động viên con cháu cố gắng thi đua học tập, đây là nét văn hoá đặc sắc có từ lâu của các dòng họ.
- Lễ cúng hằng ngày: Vào các buổi sáng sớm mồng 1, 2, 3 Tết, con cháu trong dòng họ tề tựu về nhà thờ Từ Đường, soạn lễ vật mang theo để cúng.
- Lễ cúng đưa: Căn bản như lễ cúng đưa ở gia đình.
Điểm chung của các lễ cúng ở nhà thờ Từ Đường gồm: cỗ xôi, gà, vịt lễ hoặc đầu heo, con heo… tuỳ theo kinh tế của từng gia đình đem lễ đến cúng. Cỗ được chia ra cúng theo từng ngày từ “lễ tất niên đến lễ cúng đưa” được sắp xếp theo từng vai vế của người sống. Ví dụ trong họ còn sống năm đời gồm: ông, cha chú, mình, cháu, chắt thì được chia như như sau:
Lễ tất niên: Dành cho tất cả những ai vai ông.
Mồng một: tất cả những người vai cha, chú, bác.
Mồng hai: những người ngang hàng với mình (anh em trong dòng tộc).
Mồng ba: tất cả những người vai cháu.
Mồng bốn (lễ cúng đưa): tất cả những người vai chắt.
Việc phân chia này có ý nghĩa rất quan trọng vì trong một dòng họ có hằng trăm gia đình, hàng ngàn nhân khẩu nên đôi lúc không biết nên gọi thế nào cho phải đạo. Chia từng vai vế để cúng cũng là giúp cho con cháu biết ai là vai ông, ai là vai chú bác, ai vai cháu, chắt…
3/ Làng (cúng đình và cúng đàn): Làng nào cũng có nguồn quỹ do người dân trong làng đóng góp dùng để thờ cúng và các việc khác của làng. Ngày Tết dân trong làng thường cúng những lễ cầu mong mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt.
- Lễ cúng đình: Đình làng là nơi thờ thần hoàng, các Thuỷ Tổ của các dòng họ trong làng. Thường tổ chức tế lễ vào ngày mồng bốn Tết. Lễ vật gồm cỗ xôi, gà, vịt, hay heo lễ, giấy áo, giấy tiền, vàng, bạc… cúng lớn hay nhỏ là tuỳ thuộc vào kinh tế và nguồn quỹ của làng.
- Lễ cúng đàn: Đàn là nơi thờ tự chiến sỹ trận vong, âm binh cô hồn, những người không nơi nương tựa, không họ hàng thân thích thờ cúng trong làng. Lễ vật giống cúng đình chỉ khác là cúng đàn phải có cháo, áo, nổ ( để cúng âm binh, cô hồn).
Tóm lại, những nghi lễ thờ cúng trong ngày Tết là nét văn hoá đặc sắc của người dân Bình - Trị - Thiên đã lưu truyền từ xưa đến nay, ăn sâu vào tiềm thức của người dân nên nếu thiếu những nghi lễ này thì sẽ thiếu hương vị ngày Tết của một vùng quê. Bởi vậy, dù ai đi đâu, về đâu, ngày Tết họ vẫn luôn hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình với tấm lòng thành kính và tha thiết nhất.
Tài liệu tham khảo
Lê, M. T. (2000). Minh Châu Hương Hải toàn tập. TP. Hồ Chí Minh: Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
Toan Ánh (2001). Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam. Hà Nội: Văn hoá Dân tộc.