Danh thần Lưu Đình Chất đời Lê Kính Tông (1600 – 1619), sinh năm Bính Dần (1566) tại làng Đông Khê, xã Quỳ Chử, huyện Hoằng Hoá (nay là xã Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá). Con Lâm Quốc Công Lưu Đình Thưởng.
Năm Đinh Mùi (1607), 41 tuổi, Lưu Đình Chất dự thi Đình, đỗ nhị giáp Tiến sĩ đình nguyên, làm quan Đô cấp sự trung. Năm Quý Sửu (1613), ông được thăng Tự khanh, tước Nhân Lĩnh Bá và được cử làm Chánh sứ sang nhà Minh (Trung Quốc). Đây là một trọng trách của ông trong việc giữ gìn quốc thể và sự hoà hiếu với nước láng giềng. Điều đó thể hiện qua bài thơ Lữ trung thuật hoài.
Nguyên văn:
旅 中 述 懷
中 興 喜 際 日 當天
詩 詠 黃 華 屬 壯年
忠 愛 寸 丹 常 夢寐
詢 諏 一 念 每 勤拳
觀 光 已 喜 詩 懷壯
專 對 重 思 國 命全
若 問 客 裝 何 所有
清 風 明 月 興 無 邊
Phiên âm:
Lữ trung thuật hoài
Trung hưng hỉ tế nhật đương thiên
Thi vịnh hoàng hoa thuộc tráng niên
Trung ái thốn đan thường mộng mị
Tuân tưu nhất niệm mỗi cần quyền
Quan quang dĩ hỉ thi hoài tráng
Chuyên đối trùng tư quốc mệnh tuyền
Nhược vấn khách trang hà sở hữu
Thanh phong minh nguyệt hứng vô biên.
Tạm dịch:
Nỗi lòng chuyến đi xa
Trung hưng mừng buổi mặt trời lên,
Thơ vịnh hoàng hoa tuổi tráng niên.
Trung ái tấc son thường mộng tưởng,
Kế mưu một dạ vẫn chăm chuyên.
Quan quang mừng được hồn thơ khoẻ,
Chuyên đối xem ra mệnh nước tuyền.
Nếu hỏi hành trang gì khách có,
Trăng trong gió mát hứng vô biên.
(Tạp chí Hán Nôm - số 5, 2009)
Trong dịp đi sứ này, ông có nhiều cuộc giao tiếp với các nhà Nho Trung Hoa như Gia Cát Tú, Lỗ Vương Tông Nhượng, Vương Dụng Phỉ... thông qua bài thơ Hoạ Đông Lỗ Vương Tông Nhượng kiến ký thi vận.
Nguyên văn:
和 東 魯 王 宗 讓 見 寄 詩 運
切 偲 何 行 得 逢 君
膠 膝 相 投 意 愈 親
餞席 憑 君 敲 白 雪
回 程 快 我 步 青 雲
有 懷 極 覺 交 情 切
靡 盬 剛 嫌 王 事 勤
此 後 日 南 相 記 憶
信 書 好 記 一 封 聞
Phiên âm:
Hoạ Đông Lỗ Vương Tông Nhượng kiến ký thi vận
Thiết tư hà hạnh đắc phùng quân
Giao tất tương đầu ý dũ thân
Tiễn tịch bằng quân xao bạch tuyết
Hồi trình khoái ngã bộ thanh vân
Hữu hoài cực giác giao tình thiết
Mị cổ cương hiềm vương sự cần
Thử hậu Nhật Nam tương ký ức
Tín thư hảo ký nhất phong văn.
Tạm dịch:
Hoạ vần bài thơ của Đông Lỗ Vương Tông Nhượng gửi cho
Nghĩ thật may sao gặp được anh,
Keo sơn hoà hợp đượm thân tình.
Anh bày tiệc tiễn xua tan tuyết,
Tôi rảo đường về mây biếc xanh.
Có nhớ mới hay tình thắm thiết,
Nhưng hiềm công việc chẳng dứt đành.
Nhật Nam mai nữa rồi mong nhớ,
Xin gửi phong thư nói ngọn ngành.
(Tạp chí Hán Nôm - số 5, 2009)
Hay:
Hoạ vần bài thơ của Đông Lỗ Vương Tông Nhượng gửi cho
Nghĩ thật may sao gặp được ngài,
Keo sơn hoà hợp đượm thân tình.
Ngài bày tiệc tiễn xua tan tuyết,
Tôi rảo đường về mây biếc xanh.
Có nhớ mới hay tình thắm thiết,
Nhưng hiềm công việc chẳng dứt đành.
Nhật Nam mai nữa rồi mong nhớ,
Xin gửi phong thư nói ngọn ngành.
(Vietgle sửa lại cho phù hợp hơn)
Ngoài ra, ông còn mở rộng mới giao hảo với sứ thần Cao Ly (Triều Tiên ngày nay) là Lý Đẩu Phong tại Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay). Hai ông đã tặng thơ cho nhau. Đặc biệt tình cảm sâu đậm do mối tương đồng văn hoá của hai nước Đại Việt và Cao Ly được Lưu Đình Chất gửi gắm trong bài thơ của ông gửi tặng Lý Đẩu Phong với tựa đề Giản Triều Tiên quốc sứ Lý Đẩu Phong.
Nguyên văn:
簡 朝 鮮 國 使 李 斗 峰
東 方 禮 義 久 聞 名
瑞 彩 欣 今 覩 使 星
風 物 山 川 鍾 地 秀
詞 章 奎 斗 燦 天 經
車 書 一 統 歸 王 會
日 月 重 宵 覲 帝 庭
邂 逅 雲 萍 君 莫 怪
人 逢 知 己 眼 常 青
Phiên âm:
Giản Triều Tiên quốc sứ Lý Đẩu Phong
Đông phương lễ nghĩa cửu văn danh,
Thuỵ thái hân kim đổ sứ tinh.
Phong vật sơn xuyên chung địa tú,
Từ chương khuê đẩu xán thiên kinh.
Xa thư nhất thống quy vương hội,
Nhật nguyệt trùng tiêu cận đế đình.
Giải cấu vân bình quân mạc quái,
Nhân phùng tri kỷ nhãn thường thanh.
Tạm dịch:
Gửi quốc sứ Triều Tiên Lý Đẩu Phong
Phương Đông lễ nghĩa vốn nghe danh,
Nay gặp sứ đây vẻ tốt lành.
Văn vật núi sông chung đất đẹp,
Từ chương khuê đẩu rực thiên kinh.
Xa thư một mối về vương hội,
Nhật nguyệt chín tầng chầu đế đình.
Vận hội bèo mây anh chớ lạ,
Gặp người tri kỷ mắt thường xanh.
(Tạp chí Hán Nôm - số 5, 2009)
Hay:
Gửi quốc sứ Triều Tiên Lý Đẩu Phong
Phương Đông lễ nghĩa vốn nghe danh,
Nay gặp sứ đây vẻ tốt lành.
Văn vật núi sông chung đất đẹp,
Từ chương khuê đẩu rực thiên kinh.
Xa thư một mối về vương hội,
Nhật nguyệt chín tầng chầu đế đình.
Bèo mây gặp gỡ ngài chớ lạ,
Gặp người tri kỷ mắt thường xanh.
(Vietgle sửa lại cho phù hợp hơn)
Sau khi ông đi sứ về thì được thăng Tả thị lang bộ Lại, tước Hầu.
Ông cùng Lê Bật Tứ từng can ngăn vua chúa trong những việc sai trái, bộc lộ rõ lòng yêu nước thương dân. Lưu Đình Chất có nhiều công lao với đất nước, được vua tin dùng, thăng làm Đô ngự sử, tiến phong Tá lý công thần, Tham tụng ở phủ Chúa. Rồi thăng đến Thượng thư Bộ Hộ, Thiếu bảo, tước Phúc Quận Công (Đăng khoa lục chép là Lộc Quận Công).
Năm Đinh Mão (1627), ông mất, thọ 61 tuổi, được truy tặng Thiếu sư.