Ξ|Ξ   HIẾU - HỶ ::. NGÀY GIỖ - TƯỞNG NIỆM.
Đăng ngày 14/05/2009
E-mail     Bản in

Có một Chính ủy Binh đoàn Trường Sơn ở Nam bộ
Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện tên thật là Lưu Văn Thi, sinh năm 1922 tại thành phố Hải Phòng. Ông tham gia cách mạng từ năm 1940 và nhập ngũ năm 1947. Giữa năm 1971, từ mặt trận đường 9 Nam Lào, Hoàng Thế Thiện được điều về giữ trách nhiệm Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh bộ đội Trường Sơn (Đoàn 559), rồi Chính ủy - Bí thư Đảng ủy Đoàn 559. Từ đây, ông gắn bó với con đường Trường Sơn huyền thoại cho đến đầu năm 1975 - con đường đã trở thành một tượng đài của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
 

Thiếu tướng HOÀNG THẾ THIỆN
(LƯU VĂN THI)

1. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, miền Nam là nơi hội tụ nhiều cán bộ chiến sĩ từ mọi miền đất nước về chiến đấu. Từ chiến trường này, không ít người trưởng thành, trở thành tướng lĩnh, cán bộ quân sự cao cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện là một người như thế. Trong màu áo lính, bước chân của ông trải qua nhiều chiến trường khắp cả nước, sang cả chiến trường nước bạn. Và trên bước đường ấy, ông có đến 10 năm chiến đấu ở chiến trường Nam bộ trong tổng cộng 35 năm quân ngũ. 10 năm không phải là tất cả, nhưng không phải là ngắn trong lịch sử chiến đấu một đời người. 10 năm ấy đủ để ông gắn bó và hòa lẫn vào phẩm cách đặc thù của đồng bào Nam bộ.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vào thăm và làm việc với Bộ Tư lệnh Trường Sơn và Bộ Chỉ huy Mặt trận 968 tại Quảng Bình cuối năm 1970. (Đồng chí Hoàng Thế Thiện thứ nhất từ phải sang)

Mùa thu năm 1949, Chính ủy Trung đoàn Sông Lô Hoàng Thế Thiện có mặt trong phái đoàn quân sự Trung ương vào tăng cường cho chiến trường Nam bộ. Xuyên dọc vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Nam - Ngãi - Bình - Phú, Liên khu 5, qua Đông Nam bộ, ông về đến chiến khu Đồng Tháp Mười trong lúc chiến trường Nam bộ đang bước vào giai đoạn hết sức khó khăn.

Thực dân Pháp thực hiện kế hoạch của Revers, tổng tham mưu trưởng lục quân Pháp, thành lập chính phủ tay sai Bảo Đại, phát triển ngụy quân, đẩy mạnh bình định Nam bộ với chiến thuật ô vuông “de la tuor” nhằm mục đích dồn quân ra chiến trường chính Bắc bộ. Hoàng Thế Thiện được cử làm phái viên kiểm tra thuộc Bộ Tư lệnh Nam bộ. Với kinh nghiệm nhiều năm làm công tác mặt trận Việt Minh ở địa phương và công tác chính trị trong lực lượng vũ trang, ông đến từng đơn vị quân đội, tìm hiểu thực tế và đề xuất nhiều ý kiến với Bộ Tư lệnh và Xứ ủy Nam bộ về xây dựng lực lượng vũ trang tập trung thực hiện những đòn tấn công lớn làm chuyển biến cục diện chiến trường. 

Trong đà phát triển thuận lợi của cuộc kháng chiến từ năm 1950, thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng về “gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuyển mạnh sang tổng phản công”, Bộ Tư lệnh Nam bộ quyết định giải thể các liên trung đoàn địa phương, thiết lập các trung đoàn chủ lực, tiến hành hàng loạt chiến dịch lớn nhằm phối hợp có hiệu quả với chiến trường Bắc bộ, Trung bộ và Tây Nguyên.

Cuối năm 1950, Hoàng Thế Thiện về thay Nguyễn Văn Sa làm Chính ủy Trung đoàn Tây Đô (thành lập ngày 8-5-1950 do đồng chí Huỳnh Thủ làm Trung đoàn trưởng). Cùng với việc củng cố, xây dựng trung đoàn chủ lực đầu tiên ở Tây Nam bộ, ông tham gia chỉ huy các chiến dịch Long Châu Hà 2, Sóc Trăng 2 (ở Châu Thành, Châu Phú A tỉnh Long Châu Hà), Thạnh Trị, Vĩnh Châu, Long Phú, Châu Thành (tỉnh Sóc Trăng).

Cùng với lực lượng vũ trang địa phương, Trung đoàn Tây Đô đã diệt hàng trăm tên địch, phá hủy và bức rút hàng chục đồn bót tháp canh, thu nhiều phương tiện chiến tranh, hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích ở địa phương, tạo ảnh hưởng chính trị lớn đối với đồng bào tín đồ Hòa Hảo và đồng bào Khmer vùng sau lưng địch. 

Giữa năm 1951, chiến trường Nam bộ được tổ chức lại, giải thể các khu để thành lập Phân liên khu (miền Đông, miền Tây) và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Lực lượng vũ trang được sắp xếp lại. Bộ Tư lệnh Nam bộ giải thể các trung đoàn chủ lực để thành lập các tiểu đoàn chủ lực thuộc phân liên khu và các tiểu đoàn tập trung thuộc các tỉnh mới. Trung đoàn Tây Đô giải thể, Phân liên khu miền Tây thành lập lại Trung đoàn Cửu Long, Hoàng Thế Thiện về làm Chính ủy Trung đoàn.

Khi Trung đoàn này giải thể, ông về giữ chức vụ Trưởng phòng Chính trị rồi Chủ nhiệm Chính trị Phân Liên khu miền Tây. Ở cương vị mới, ông cùng cơ quan chính trị Bộ Tư lệnh Phân Liên khu đẩy mạnh công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang, tổ chức chỉnh huấn, chỉnh Đảng, cùng quân và dân Tây Nam bộ đấu tranh giằng co quyết liệt với địch, giữ vững phong trào kháng chiến, thực hiện công tác tôn giáo vận trong đồng bào theo đạo Hòa Hảo, Cao Đài, Thiên Chúa, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, thực hiện tạm cấp ruộng đất và phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội ở các địa phương vùng giải phóng - căn cứ địa.

Trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông đã cùng hệ thống chính trị trong Phân Liên khu vận động nhân dân đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh, phát triển tăng gia sản xuất, tiến hành chiến dịch địch ngụy vận, xây dựng căn cứ địa và vùng giải phóng, tuyên truyền thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève, tổ chức lực lượng ở lại và tập kết ra miền Bắc.

Đồng chí Hoàng Thế Thiện (thứ nhất từ trái sang) cùng đồng đội trên đường Trường Sơn.

2. Giữa năm 1965, Nhà Trắng buộc phải thay đổi chiến lược chiến tranh, trực tiếp đưa quân viễn chinh chiến đấu vào Nam Việt Nam. Cần phải có những đơn vị chủ lực mạnh trên chiến trường Đông Nam bộ, lần lượt, các sư đoàn quân giải phóng ra đời hầu đối phó với địch trong tình thế cường độ cuộc chiến tranh bị địch đẩy lên rất cao. Và Hoàng Thế Thiện được cử về làm Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 9, sư đoàn mà bộ chỉ huy gồm những cán bộ quân sự xuất sắc như Hoàng Cầm, Lê Văn Tưởng, Nguyễn Thế Bôn.

Đối tượng tác chiến của sư đoàn ngoài các sắc lính ngụy, là những đơn vị chiến đấu sừng sỏ và có truyền thống lâu đời của quân đội Mỹ như: Lữ đoàn 173 “không vận”, Sư đoàn bộ binh 1 “anh cả đỏ” với biểu tượng chiếc mộc chắn thời Trung cổ và Sư đoàn bộ binh cơ giới 25 “tia chớp nhiệt đới” với nhiều bội tinh từ cuộc thế chiến thứ 2 và chiến tranh Triều Tiên. Hoàng Thế Thiện đã cùng Đảng ủy sư đoàn lãnh đạo xây dựng đơn vị đoàn kết, vững chắc về chính trị, giỏi về kỹ thuật, chiến thuật đánh vận động, đánh công kiên, xác định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Trước khi về nhận nhiệm vụ mới ở mặt trận Tây Nguyên, ông đã cùng sư đoàn tổ chức thắng lợi nhiều trận đánh ở Lai Khê, Đất Cuốc, Bàu Bàng, Đồng Sở, Dầu Tiếng, Long Nguyên, cống hiến những kinh nghiệm quý báu ban đầu về cách đánh quân viễn chinh Mỹ. 

Sau thắng lợi của chiến dịch đường 14 - Phước Long, tháng giêng năm 1975, cách mạng Nam bộ đứng trước tình thế một cuộc tổng tiến công chiến lược cuối cùng. Thiếu tướng Chính ủy binh đoàn Trường Sơn Hoàng Thế Thiện, một lần nữa, lại trở về chiến trường Nam bộ, giữ trách nhiệm Chính ủy Quân khu 4.

Trong không khí khẩn trương của những ngày đầu năm 1975, Quân đoàn 4 triển khai tấn công địch trên hai hướng: quốc lộ 13 và quốc lộ 20. Tham gia chỉ huy lực lượng đánh địch trên hướng Dầu Tiếng - Chơn Thành, Chính ủy Quân đoàn Hoàng Thế Thiện đã cùng các đơn vị bộ đội giải phóng quận lỵ Dầu Tiếng, tiến công địch ở An Lộc - Chơn Thành, rồi lật cánh, tiến hành trận đánh 12 ngày đêm ở Xuân Lộc, mở toang cánh cửa thép phòng ngự phía Đông của địch, phát triển đánh chiếm Trảng Bom, sân bay quân sự, căn cứ Quân khu 3, Quân đoàn 3 ngụy ở thị xã Biên Hòa; từ đó tiến về Dinh Độc Lập, giải phóng thành phố Sài Gòn.

Miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông cùng Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 lãnh đạo chỉ huy bộ đội thực hành tiếp quản thành phố Sài Gòn, truy quét tàn quân địch và trấn áp lực lượng phản động, xây dựng bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm trong thành phố, khắc phục hậu quả chiến tranh, tham gia xây dựng kinh tế, tổ chức lại đơn vị và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trong điều kiện lịch sử mới.

* * *

Có thể nói rằng, chặng đường chiến đấu của Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện ở Nam bộ gắn liền với các đơn vị chủ lực, với quá trình xây dựng, chiến đấu của lực lượng vũ trang chủ lực ở Nam bộ, từ trung đoàn đến cấp quân đoàn. Ông có mặt hầu khắp chiến trường Nam bộ, từ miền Tây, miền Trung lên miền Đông và thành phố Sài Gòn, từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến kháng chiến chống đế quốc Mỹ và những ngày tháng sôi động sau khi đất nước hòa bình thống nhất.

Những gì ông để lại cho lực lượng vũ trang Nam bộ là hình ảnh một cán bộ chính trị kiên trung, tận tụy, sâu sắc, mực thước và dung hậu. Với tư cách một người lính cầm súng, trên dọc đường hành quân đánh giặc, Nam bộ là nơi ông dừng chân lâu nhất, cũng là nơi ông dừng lại sau cùng. 

 

Theo HỒ SƠN ĐÀI


Gửi ý kiến của bạn
(Xin hãy viết chữ có dấu! Xin cảm ơn!)