Ξ|Ξ   GIỚI THIỆU ::. BAN NGHIÊN CỨU LƯU TỘC VIỆT NAM.
Đăng ngày 11/9/2013
E-mail     Bản in

Đền Đồng Cổ - Tâm linh và khát vọng giữ yên nước nhà
(LUUTOC.VN) - Đền Đồng Cổ là di tích Lịch sử - Văn hóa được xếp hạng cấp Quốc gia năm 2001 tại thôn Đan Nê (Thanh Hóa). Đây là điểm du lịch tâm linh và hướng về nguồn; là điểm nhấn trong quần thể di tích lịch sử - văn hóa của xứ Thanh, có bề dày truyền thống từ lâu đời, vừa có phong cảnh hữu tình, vừa có những huyền thoại gắn trong lịch sử đất nước. Nơi đây, vào thời Hùng Quốc Vương có 3 dòng họ sinh sống, đó là họ Trịnh, họ Lưu và họ Hà (1). Nhân dịp đoàn khảo sát “Nghiên cứu họ Lưu Việt Nam” vào điền dã Cửu Chân - Thanh Hóa có đến dâng hương tại đền Đồng Cổ, LUUTOC.VN xin giới thiệu bài viết về Đền Đồng Cổ của Cổng thông tin điện tử Huyện Yên Định, Thanh Hóa để Đoàn có thêm tư liệu tham khảo, gọi là chút quà của BBT LUUTOC.VN chúc Đoàn khảo sát thành công.

 

Góc chính diện đền Đồng Cổ ở Đan Nê, xã Yên Thọ - huyện Yên Định, Thanh Hóa

Tương truyền ngày xưa, một vị vua khi đi đánh giặc qua đây có nghỉ lại một đêm trên bến Trường Châu bờ phải sông Mã (nay thuộc xã Yên Thọ). Trong giấc chiêm bao, vua được một vị thần xưng là thần núi Ðồng Cổ báo mộng rằng dưới chân núi có trống đồng cổ, đào lên dùng tiếng trống làm linh khí đuổi giặc. Khi vua tỉnh giấc còn nghe tiếng chuông đồng vọng từ ngôi đền dưới chân ba ngọn núi. Nhà vua làm theo những điều mà sơn thần nơi đây báo mộng. Quân giặc nghe tiếng trống đồng âm vang đã sợ khiếp vía và rút chạy. Từ đó, nơi ba ngọn núi đá chụm đầu vào nhau, tạo thế vững chãi từ sức mạnh đoàn kết như kiềng ba chân, đã trở nên linh thiêng. Theo bảng thuyết minh treo ở Thượng Điện: “Miếu Đồng Cổ được khởi dựng từ thời Hùng Vương (2569 – trước Công nguyên), đến thời Lý (1020) miếu được sửa sang lại, sang thời Lê – Trịnh (1630), miếu được xây dựng khang trang, to đẹp hơn…Miếu thờ thần núi Đồng Cổ, vị thần đã giúp các triều đại đánh thắng giặc ngoại xâm và diệt trừ phản loạn: Giúp vua Hùng đánh thắng giặc Hồ Tôn; giúp vua Lý đánh thắng giặc Chiêm và diệt trừ phản loạn; giúp vua Lê-chúa Trịnh đánh tan nghịch Mạc; các đời Đinh, Lý, Trần, Lê thờ cúng đều ứng nghiệm, giúp việc giữ gìn đất nước…”

Sách “Việt điện U Linh” (NXB Văn hóa năm 1960) của Lý Tế Xuyên (thế kỷ XIV) chép một đoạn về Lý Thái Tông, đại ý: Phụng mệnh vua cha là Lý Thái Tổ, Thái tử Lý Phật Mã (sau này là vua Lý Thái Tông) đem binh đi đánh Chiêm Thành (1020), đến Trường Châu (núi Khả Lao ở làng Đan Nê) đóng quân tạm nghỉ. Canh ba đêm ấy, thấy một người thân cao 8 thước, mắt sáng, râu rậm, mặc chiến bào, tay cầm kim khí, đến trước cúi đầu tâu rằng:

- Tôi là thần núi Đồng Cổ, nghe tin Thái tử đi đánh phương Nam, tôi xin theo giúp để phá giặc lập công.

Thái tử vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh giấc. Quả nhiên, theo lời Đồng Cổ Sơn Thần, vua cho quân tiến đánh giặc Chiêm Thành, giành thắng lợi. Khi khải hoàn về qua Trường Châu, Thái tử bèn sai quân sĩ sửa sang miếu thần thành đền thần, rồi tạ lễ và rồi rước bài vị về kinh đô để dựng đền giúp cho quốc thái dân an.

 


Trống đồng tại Thượng Điện đền Đồng Cổ xã Yên Thọ
 

Năm 1028, vua Lý Thái Tổ băng hà, Thái tử Lý Phật Mã chưa kịp lên ngôi thì xảy ra loạn Tam vương. Các hoàng tử Vũ Đức, Đông Chính và Dực Thánh khởi loạn giành ngôi báu. Thái tử được Lê Phụng Hiểu giúp sức dẹp yên. Lý Phật Mã lên ngôi vua (Lý Thái Tông) nhận rằng trước thời điểm xảy ra nội loạn trong vương triều, thần núi Đồng Cổ đã báo mộng cho Thái tử biết nên đã kịp thời mà phòng bị.

Từ vụ dẹp xong tạo phản, vua càng tin vào sự linh thiêng của thần Đồng Cổ, xuống chiếu giao cho quan hữu ty dựng đền thờ tại Thăng Long vào năm mới lên ngôi sau chùa Thánh Thọ (1028), lấy ngày 25-3 dựng đàn thề. Sau đó vì tháng 3 có ngày Quốc kị nên chuyển sang ngày mồng 4-4 hàng năm. Nhà vua ban chiếu lập đàn treo cờ tại đền Đồng Cổ, bắt các hoàng thân quốc thích và tất cả triều thần tới đền, đứng trước thần vị, đọc lời thề rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; ai bất trung bất hiếu, thì xin thần minh làm tội". Trải qua các triều đại đền thờ thần Đồng Cổ Đan Nê vẫn được coi là đền chính.

Đền Đồng Cổ là nơi diễn ra các nghi lễ của các triều đại vua chúa nước ta. Trong đền còn rất nhiều thần tích, sắc phong của các triều đại. Các vương triều Trần, Lê, Trịnh - Nguyễn vẫn duy trì các nghi thức quốc lễ tại đền Đồng Cổ ở Yên Định (Thanh Hóa) và phường Bưởi (Hà Nội). Thời Trần, hội thề Đồng Cổ là một hội lớn, dân bốn phương về xem hội rất đông. Đền Đồng Cổ tại Hà Nội giờ đây nằm trên khu đất cao, trông ra sông Tô Lịch, gồm Tam quan, các tòa Tiền tế, Trung tế và Hậu cung. Bên trong vẫn còn lưu giữ 12 đạo sắc của các niên hiệu: Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quang Trung, Cảnh Thịnh, Thiệu Trị, Tự Đức (từ 1740 - 1883). Vì đền thờ linh thiêng nên vào nửa đầu thế kỷ thứ I sau Công nguyên, các nghĩa sĩ Thanh Hóa đã rước linh vị thần Đồng Cổ lập miếu thờ ở Nguyên Xá, huyện Mê Linh, nơi tụ nghĩa của Hai Bà Trưng.

Du khách tham quan đền Đồng Cổ 

Tại đền thờ gốc ở Đan Nê có ba ngọn núi đá vững chãi (gọi là Tam Thái Sơn) bao bọc một khu đất rộng có hồ nước ở giữa, tạo phong cảnh sơn thủy hữu tình. Trước cửa đền, bên kia hồ bán nguyệt, có hai tấm bia trên vách đá núi Xuân. Một tấm bằng chữ Hán khắc lại bài văn bia do Nguyễn Quang Bàn, con vua Quang Trung, viết năm 1802, ca ngợi phong cảnh sơn thủy hữu tình nơi đây, và kể lại chuyện một chiếc trống đồng cổ được tìm thấy và cúng tiến vào đền. Tấm kia bằng tiếng Pháp, khắc năm 1889, nội dung chép lại bài văn dân làng Ðan Nê tỏ lòng sùng kính với ngôi đền. Còn tấm bia chữ Hán chép rằng, năm Canh Tuất (1790) Tuyên công Nguyễn Quang Bàn vâng mệnh vua cha vào làm quan đặc sai đốc trấn Thanh Hóa. Một đêm, ông nghỉ tại làng Ðan Nê, có vào cầu khấn trong miếu thờ Ðồng Cổ Sơn Thần. Sau đó ứng nghiệm bằng việc ông bỗng thấy bên bờ Nam sông Mã xuất lộ một chiếc trống đồng cổ rộng 9 thước, cao 4 thước. Có luận giải rằng đây là chiếc trống đồng năm xưa đã giúp vua Hùng đã làm linh khí đánh giặc loạn xâm vùng này. Năm Nhâm Tuất (1802) lại có dịp đi qua miếu, Nguyễn Quang Bàn sai đem chiếc trống đồng tìm được dạo trước hiến cho đền, đồng thời viết bia (lúc đó là bia gỗ) ghi lại để đời sau được rõ.

Theo những người cao tuổi trong làng Ðan Nê, đền Ðồng Cổ từng có 38 gian, bề thế tựa lưng vào Tam Thái Sơn (dân làng gọi một cách dân dã là dãy núi Ðổng). Ngày xưa ba ngọn núi đá bao quanh đền là rừng cây nguyên sinh rậm rạp, nhiều cây to, có nhiều chim, thú. Nhưng, qua biết bao biến đổi, nay chỉ còn những ngọn núi đá với cây mọc tái sinh tầng thấp.

Đền có Nghinh môn gồm 3 tầng, 8 mái, mang phong cách kiến trúc thế kỷ 15 (thời Lê), cao 9 m, rộng 3 m, được ghép bằng những khối đá vuông vức (không dùng vữa), cuốn thành vòm tò vò. Theo những bậc đá lên đến ngôi miếu cổ trên núi Xuân, du khách có thể thu vào tầm mắt phong cảnh thật tuyệt vời của dòng sông Mã. Giữa đôi bờ bạt ngàn những ruộng ngô xanh mướt đang phất cờ, dòng sông mùa khô mang mầu ngọc bích hiền hòa trôi. Xa xa, phía bên kia sông là dáng hình thành Nhà Hồ (thuộc huyện Vĩnh Lộc), ẩn hiện trong sương mù mùa đông mờ ảo. Dưới chân núi, ngôi đền Ðồng Cổ (được xây lại vào năm 1996, chỉ gồm một gian hai chái), lọt trong xanh tươi cây lá. Trước đền, hồ Bán Nguyệt như một tấm gương soi mây trời, lồng bóng núi.

Hang núi tại đền Đồng Cổ - nơi làm xưởng sản xuất vũ khí thời kháng chiến

Thời kháng chiến chống Pháp, binh công xưởng Nguyễn Công Cậy sản xuất vũ khí ngay trong hang động Ích Minh trong lòng ngọn núi bên phải của đền. Gần đây, người ta còn tìm được trong hang nhiều vỏ bom hình dáng như chiếc vỏ chai và những vũ khí tự tạo trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Khi quân Pháp phát hiện ra vị trí công binh xưởng Ích Minh, chúng đã cho máy bay ném bom san phẳng cả đền Ðồng Cổ. Những di tích nguyên gốc còn lại đến nay, ngoài hai tấm bia kể trên, chỉ còn chiếc miếu nhỏ lưng chừng đỉnh núi Xuân, và chiếc cổng Nghinh môn nằm ở phía tây ngôi đền.

Ðến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một nhà máy điện cũng sơ tán về đây, sản xuất điện phục vụ kháng chiến ngay trong lòng hang Nội ở ngọn núi bên trái ngôi đền.

Năm 2007, UBND tỉnh Thanh Hóa đã phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng, bảo tồn, tôn tạo núi và đền Đồng Cổ theo 2 giai đoạn với tổng kinh phí dự toán hơn 35 tỷ đồng. Ngày 4-7-2008 khởi công xây dựng các hạng mục công trình: Tu bổ và tôn tạo Nghi Môn, Quán Triều Thiên, Tiền Điện và Thượng Điện, trong đó Thượng Điện là hạng mục chính. Sau hơn 1 năm xây dựng, ngày 15-8-2009 hoàn thành giai đoạn I với nguồn vốn hỗ trợ đầu tư đợt 1 (15 tỷ đồng) của UBND thành phố Hà Nội và Ban chỉ đạo Quốc gia 1000 năm Thăng Long –Hà Nội. Một số hạng mục chính yếu của khu di tích đang rất cần được nâng cấp tôn tạo hoàn chỉnh như: Bàn cờ tiên trên đỉnh núi, chùa Thanh Nguyên, bến Trường Châu, Tiền Điện, Nghi Môn…Hệ thống đường vào đền, đường quanh hồ bán nguyệt, đường lên núi, khu dịch vụ du lịch cũng cần được xây dựng, nâng cấp xứng tầm với giá trị và quy mô của khu di tích này.

Ngày 23-2-2010, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã gắn biển công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội cho di tích đền Đồng Cổ ở làng Đan Nê, xã Yên Thọ (Yên Định, Thanh Hóa).

Đền Đồng Cổ ở Đan Nê (Yên Định) và đền Đồng Cổ tại Thủ đô Hà Nội thật sự là di tích lịch sử - văn hóa có giá trị đặc biệt với người dân Việt Nam, nó thể hiện rõ tâm linh hướng thiện và tâm thức về nguồn, vọng ngưỡng lòng trung thành, yêu nước của người Việt Nam, phát huy những giá trị tiếp nối truyền thống thượng võ của dân tộc ta. Đây cũng là điểm tham quan, thưởng ngoạn, viếng cảnh và thắp hương cầu nguyện của du khách trong và ngoài nước.

 

Vách đá đề thơ 

Đền Đồng Cổ ở phường Bưởi, quận Tây Hồ - Hà Nội

Chú thích:
(1) Theo tư liệu “Họ Trịnh Thanh Hóa” trên mạng: www.cuocsongviet.com.vn/index.asp

Theo yendinh.thanhhoa.gov.vn
 

Ghi chú của Ban Nghiên cứu Lưu Tộc Việt Nam:

Đối với họ Lưu - Việt Nam, hiện nay Đền Đồng Cổ và Đan Nê có ý nghĩa rất lớn; làng Đan Nê hiện có 4 dòng họ Lưu (Lưu Đình, Lưu Quang, Lưu Phúc và Lưu Phúc), có nhiều đồng tộc họ Lưu tiêu biểu như: Bà Lưu Thị  Phương Mai - nguyên Quyền Bộ Trưởng Bộ Lương thực thực phẩm; Thiếu tướng Vũ Hắc Thông (tên thật: Lưu Đình Hy); Ông Lưu Thanh Tâm - TGĐ Tổng Công ty CP Bảo hiểm Bảo Long...); và các địa phương xung quang đền Đồng Cổ cũng có rất nhiều cộng đồng họ Lưu sinh sống và duy trì được dòng tộc. Đây sẽ là những dòng họ Lưu hấp dẫn cho việc nghiên cứu họ Lưu Việt Nam đến khảo sát...

 


BBT LUUTOC.VN


Gửi ý kiến của bạn
(Xin hãy viết chữ có dấu! Xin cảm ơn!)