Ξ|Ξ   HỌ LƯU ĐỊA PHƯƠNG ::. MIỀN BẮC ::. Phú Thọ.
Đăng ngày 10/10/2013
E-mail     Bản in

HỌ LƯU VIỆT NAM VỚI HÙNG VƯƠNG KIM NGỌC PHẢ (Phần 3)
Từ Chương 8 đến Chương 12 của Kim Ngọc Phả Đời Vua Hùng Vương
Chương 8:

Ngôi Thái tử là Hùng Huy Vương dựng lên làm vua. Húy là Huy Vương, ở ngôi vua được 200 năm, lấy nàng Ngọc Tiêu ở núi Tam Đảo. Vua cùng bà Hậu Phi có diệu pháp thần thông gia truyền tiên thuật, hóa sinh bất diệt, táng 3 đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, Tọa thiền hướng Tốn.

Vua tuân theo đại thống, từ khi vua Hùng Vương lên ngôi, sửa sang chính trị, nối được thanh thế đường hoàng, treo cung xếp giáp, không phải dùng binh, an dưỡng về sinh dân, sáng ngời việc chính hóa. Song mà không biết soi xét dấu tiền xa, làm càng rối lễ, khiến cho thiên tai liền giáng, ngoài ven bị lấn. Bấy giờ khâm sùng đạo trời, kính thờ quỷ thần. Phàm mọi nơi núi bể ở đâu có linh từ, chiếu truyền cho các văn võ, quan phải sửa miếu điện, đắp vẽ thần tượng, phụng thú tinh khiết.

Vua bèn ngự đến điện Kính Thiên truyền xây dụng một ngôi giáo đài Ngọc Khuyết tô vẽ cung tường, trang hoàng miến vũ, nghiêm đặt nghi vệ, nhất nhất nghiêm trang, phàm các đồ khí tế, đều vẽ rồng mây, ngày đêm đốt hương bất tuyệt. Cứ đến ngày sóc vọng, Vua thường trai giới đến ngự trầu. Phía hữu cạnh đền có một ngôi chùa do bậc Tiền Đại Thượng Thánh đã tu luyện được diệu pháp thành tiên, hóa sinh bất diệt, ban ngày lên trời, phát tích tự chùa này được bộ chúng thần tiên giáng thế, giúp dặp núi sông, đúc thiêng tốt lạ, bốn vị Thiên Vương, tám hộ Kim Cương, hai mươi tám ngôi sao, trăm Thần đô hội truyền cho các thị vệ ở nơi núi non sông bể, các bách thú lại trầu, đều về một mối.

Trước gọi là chùa Tha Lang ở cõi núi Từ Sơn (nay gọi là chùa Thiên Quang[15] hòa thượng Thiền sư). Vua lại ngự đến, truyền cho tả hiền trăm quan sửa sang trong chùa. Bốn phía cung tường, vẽ đồ ngọc bích, sắc sắc sáng lộng vun trồng hoa cây, làm nơi phong cảnh tham quan.
Vua bèn xuống chiếu cho các phủ huyện xã dân, ở đâu có tăng ni đạo sĩ, đều phải hội đồng ứng thí tuyển tòa lục ty tăng không, cấp pháp áo mũ, hội giảng chân kinh, tiến cúng hương hoa, bốn mùa thơm nức.

Vua khiến quần thần sửa soạn trai lễ thời thường ngày sóc vọng phụng dâng, văn võ lại ban trầu trực, phép tắc nghiêm trang. Vua bèn làm sớ tâu lên. Chín lần xa cách khói hương thấu đến mây xanh; một tấm lòng thành cảm cách thông lên Thượng Đế, cầu thì ắt sống, nguyện tất theo lòng. Đương lúc mùa xuân ngày tốt, vua ngự trong đền, bỗng thấy một vị Lão Ông mình vàng tướng ngọc, rẽ mưa nối mây mà lại. Vua ngự bái, đón rước vào chùa. Lão Ông nói: "Ta là Thần Tây vực ở lầu Giác Hải, chèo thuyền bát nhã tiêu dao, chẳng thấu bụi trần ruổi cõi niết bàn vui thú. Nay đã lòng thành cảm cách, kinh kệ truyền thanh, nên ta hiển ứng lại đây".

Vua thầm mừng nói: "Người mà trong sạch, ý trời ắt thông". Chợt thấy Lão Ông vớ trong tay áo ra một cái vuốt rồng, một hòn Ngọc Thiên Bảo cho vua. Khoảng trong chớp mắt, mây lành năm sắc, ám ảnh liên sơn. Lúc ấy, Lão Ông bay lên trời đi ngay. Vua mới biết là Thượng Phật giáng ngự. Vua vọng bái ngay. Tức khắc khiến trăm quan trong thành trai giới lập đàn ngay ngôi chùa gần cung điện. Triệu bách thần hội tại Linh Sơn, khấn rằng: "Trong khoảng nhật gian lão thảo, tới thấy Lão Ông cho đôi vật lạ. Không biết đem làm đồ vật gì. Nếu phải anh linh, xin ng bảo cho".

Khấn xong trông lên trên không sáng lộng, một trận mây lành đưa ngay bốn Thiên Vương đến tại trước đàn, hiện ra mình dài tám thước, đầu đội hoa quan, sắc rạng rõ rệt, vân mây trắng xóa đón vào trong đền. Chỉnh tề áo mũ bái tạ. Đây là Đại Thiên Vương dặn bảo Vua rằng: "Trước kia Lão Ông cho vật lạ này, tên là Hoàng Thiên Đại Bảo, một thứ thì làm chuôi gươm, một thứ thì làm quả ấn nên đúc rũa ngay khắc làm quốc bảo". Nói xong, Thiên Vương bay thẳng lên trên không. Vua bèn vọng bái ở ngay đầu núi. Nhân thế Vua sai đắp vẽ thánh tượng ngay ở chùa để phụng sự rồi Vua giá ngự hoàng cung, bèn lấy hòn Ngọc Thiên Bảo khắc làm quả ấn thiên linh. Kiếm gọi là Thiên Linh. Từ đấy trở đi, xã tắc không lo, triều đình yên ổn. Vua nghiệm biết lẽ trời rất huyền uy, lòng sùng trọng càng ngày càng hậu.

Lúc ấy, một phương trong sáng, muôn cảnh mới mẻ, tía đỏ đầy thành, thiền quang thỏa mái, nước trị dân yêu, triều đình chính đáng, chúa thực nhân từ, tôi đầy tuấn kiệt, rằng rặc nhiều sĩ, mây họp sân vua, san sát mọi hiền, sao bày cửa đế. Hội thịnh văn minh, chưa từng đã có. Thời đương yến đặt lầu rồng, quần thần đều dâng lời biểu, phong vân ở núi Tam Đảo có nhiều quân tiên lai hội. Tinh thành tray sạch, đến đấy có thể thấy được. Vua vốn là người trọng vọng việc quỷ thần, thấy nói thì bằng lòng ngay. Bèn đóng xe ngự đi xem phong cảnh, xe loan đến ngay tại chỗ, mừng thấy núi non gấm vóc, lâu đài sáng lớp lớp nghìn tầm, suối khe xanh biếc, sóng nước tĩnh sàn sàn muôn phái, giăng trong gió sóng cỏ mượt hoa thơm. Nhung nhúc đầu non, khí tuôn rồng trắng. Trước xưa có dựng một chùa, gọi là chùa Tây Thiên, vua bèn thiết lập đàn trăng, đặt bàn tray lễ. Khiến quần thần dâng tiến trầu trực. Vua làm lễ yết bái, mở một trang công đức ở giữa chùa, sớm đảo tới cầu, bảy ngày bảy đêm, bốn phương mây họp, sĩ sứ cùng vui. Chim núi rừng đọc vinh cảnh thỉnh. Cá suối khe giảng kệ lại nghe, một lòng công đức, muôn phúc hưởng cùng.

Vua lại ngự trên khe bàn đá để xem tiên cảnh, địa vũ nguy nga, yên hòa ám ảnh, bốn vách rồng mây, tờ mờ đài sen Tây Chúc; một bầu non nước, hẳn đây thắng cảnh bồng lai.

Vua bèn vào chùa phù nghi, đứng vọng bái tiên đàn. Mật đảo đức Hoàng Thiên, sai văn võ trăm quan, đứng trầu nghiêm túc. Vua vào yết lễ, khấn rằng: "Mong trời giáng hạ thần tiên, may được gặp gỡ, phu lòng vui thú Tam sinh". Khấn xong, Vua làm lễ bái tạ. Trong ba ngày nữa, chẳng thấy gót tiên lại hội, Vua tự đấy trong dạ bồi hồi, không sao nén được. Vua bèn đến nơi long đầu đứng vọng tiên đài, lòng tin mật đảo. Vua đêm nằm mơ thấy thần linh, báo rằng: "Tây Đại Sơn nhân thượng, bất kiến tâm hạ tướng, hội đông đúc các nhân, doãn cư thượng khẩu vượng".

Tạm dịch là: Người trên núi phương Tây, chẳng rõ tướng trong lòng, gặp mọi người phương Đông, tin ở trên miệng nói. Vua nghe được bốn câu Thần thi quay xe mà về, ngự đến dưới chỗ sườn núi, thấy một mỹ nhân, dáng người rất đẹp, cốt cách lạ lùng, đứng ở cạnh đền Cẩm Miếu. Trông xem xe vua. Vua yêu thửa sắc, bèn vời lấy đấy. Khi vua vào cung, hỏi rằng: "Nhà thiếp ở đâu?" Người con gái nói: "Thiếp là người tiên, giáng sinh bên Đông Lộ, làm con gái ông Trưởng giả, mấy năm ở trốn náo hoa, ngâm kinh vịnh sử nguyệt hoa não nùng, giang tay chờ đợi anh hùng, gìn vàng giữ ngọc khuê phòng nỉ non. Khoảng ấy, trộm nghe đng bệ hạ dóng xe chơi cõi Tây Thiên, thiếp lập trai đàn, chí cầu tiên tử, thiếp tôi cũng chẳng nề xa, lại đây quan khảm, may mà duyên giời định trước, gặp gỡ cùng nhau, nguyện xin hầu hạ Trướng trung, phu lòng tố ước". Vua nghe lời nói, biết là người trời cho Tiên nữ về ta.

Bấy giờ Vua khiến quần thần, mang đủ sính lễ, dóng xa giá sang bên Đông Lộ, tới đến nhà ông Trưởng giả, đặt bày sính lễ. Vua ngự giá nghinh hôn, đưa về đô thành Phong Châu, dựng làm ngôi Hoàng Phi chính thất. Chưa đầy một năm, nàng Ngọc Tu[16] có chửa, sinh được một người con trai; Kiến hiệu là Hùng Vĩ Vương. Sau Vua cùng bà Hoàng Phi học được tiên thuật, hưởng nước 200 năm. Vua truyền ngôi cho hiền tử. Trong đó có năm đời vua thay đổi trị vì. Thọ đổi năm tháng kiêu hãnh, hóa sinh bất diệt. Dựng Minh Vương lên nối ngôi, trao của báu đời trước lưu lại. Chính trị ban đầu rực rỡ khả quan, thường lấy ấn kiếm phô bảo mọi quần thần rằng: Trẫm có một đôi linh bảo, lo gì thiên hạ chẳng yên. Bởi thế thần oai càng dậy, thanh thế càng dệt, gian phu bốn phương ai là chẳng sờn lòng mất vía. Trong nước thái hòa, biên phương vô sự. Thiên hạ xưng là hiền chủ, hưởng được 100 năm thì mất. Rồi truyền mãi đến các đời vua như sau:

                   Hùng Chiêu Vương                  làm vua 80 năm;
                   Hùng Oai Vương                     làm vua 90 năm;
                   Hùng Trinh Vương                  làm vua 107 năm;
                   Hùng Võ Vương                      làm vua 96 năm;
                   Hùng Việt Vương                     làm vua 105 năm;
                   Hùng Định Vương                             làm vua 99 năm;
                   Hùng Triều Vương                   làm vua 94 năm;
                   Hùng Tạo Vương                     làm vua 92 năm;

Trải 16 đời, hiệu xưng Trị Bình, kịp đến 17 thế lang họ Hùng là Hùng Nghị Vương lên nối trị nhân thế bang thiên hạ yên ổn, ham say rượu sắc, vui thú du quan, chẳng sửa vũ bị. Thục Vương[17] xa nghe trong nước không thường dùng võ, muốn chiếm hữu một dư đồ, song sợ phương Nam có thần sách, dùng dằng chưa quyết. Lúc ấy, Chủ phụ đạo bộ Ai Lao có đại hùng tài, cũng là tông phái họ Hùng, vua Thục nghe biết, bèn đem binh sang đánh bộ Ai Lao, bắt sống Chúa phụ đạo, bộ Ai Lao chẳng hay kháng cự, sai người sang cầu cứu với Hùng Nghị Vương. Vua bèn đem 10 vạn tinh binh thẳng đến dưới thành bộ Ai Lao, để cứu bộ Chủ. Thục Vương nghe nói, bèn nghiêm túc đưa tờ thư sang cho Nghị Vương rằng: "Binh Thục từ phương Tây lại, bản tâm bắt sống bộ Chủ, để truyền ngôi cho há dám giang tay địch xe muôn c đâu?"

Hùng Nghị Vương thấy tờ thư đưa lại dẫn binh quay về. Thục Vương bắt được bộ Chủ đem về nước Thục, gả Công chúa và nhường ngôi cho, sai sứ mang tờ quốc thư lại tạ Nghị Vương. Xin rằng: "Nam triều là anh, Tây triều là em, giảng hòa định ước hai nước giao lâu". Nghị Vương hứa cho, từ đấy Tây triều thôi hẳn việc binh cách, không gây sự tranh giành gì nữa.

Nghị Vương ở ngôi được 160 năm, Vua truyền cho 5 hiền tử lần lượt thay lên trị vì. Vua thọ 217 tuổi thì mất.

Chương 9:

Bèn dựng Thái tử là Hùng Duệ Vương lên kế thống. Vua là người tư dung thánh triết, chí khí anh hùng, trong sửa vũ lược, ngoài ngăn biên phòng, dốc chí dấy yên cho yên trong nước. Sai Dám Trang Vương thay mình trị nước, khâm sùng trời đất, kính trọng quỷ thần. Trời giáng điềm lành, giúp đỡ ở đấy. Bởi thế càng thêm sùng trọng, tin kính thần nhân, truyền hịch cho thiên hạ thần dân, sửa thêm tề vũ cung điện tỏ vẻ nghi vệ nghiêm trang, ngày dâng hương hoa, thuộc lòng phụng tự. Các quan sở tại ở chấn huyện nào đều phải tới cung điện một tháng hai lần phải đến trầu trực, mật đảo bách thần cho dài vận nước. Vua thân lâm đến bảo điện núi Nghĩa Lĩnh để xem xét các tôn lăng của đấng Tổ Tông và lịch triều mọi người trung thần khai quốc. Yết kiến linh điện các bậc danh tướng, nhất giai là sửa chữa, thực là:

Kép tầng vây cuốn, lâu đài muôn trượng chọc giời;
Bốn vách sáng ngời, phong cảnh một bầu cuốn đất;

Sai văn võ tể chỉnh áo mũ, tùy theo thứ tự tước vị, cứ ngày tuần trầu trực, nghiêm túc quy mộ pháp chế, đính chính Triều đình.

Lúc Vua trị vì, chưa có thái tử để truyền ngôi, song Vua dóng xe dạo chơi khắp nơi Tam Đảo, Tản Viên, xét xem hình thế chỗ nào có thắng cảnh kỳ sơn, thì lập ngay miếu điện để phụng đảo cầu tự.

Đương lúc vận cuối nhà Hùng, cáo chung lịch số, vua mơ thấy điềm sà hủy, sau sinh được hai nàng Công chúa, đều là bậc phụng đức trịnh hiền, phong tư tuấn nhã, Tề phương Tống nữ, coi cũng tầm thường, dáng ngọc vẻ Tiên một bậc sánh ngôi. Nàng cả là Mỵ Châu Tiên Dung Công chúa. Nàng hai là Mỵ Nương Ngọc Hoa Công chúa. Vua rất thương yêu, nàng Mỵ Châu thì đã gả cho Chử Công Đồng Tử (Quê quán ở xã Đa Hòa, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, xứ Sơn Nam). Còn nàng Mỵ Nương Công chúa thì vua thầm tìm bậc anh kiệt, chưa định giai kỳ, bèn dựng hai lầu ở trước cửa sông Việt Trì, treo biển đề rằng: Quán ngoạn nguyệt cầu hiền. Lầu đợi hiền kén rể, cho nàng Công chúa thứ hai đến ở, Vua bèn đưa tờ hịch đi khắp bốn phương cầu rể hiền, nhường ngôi trị nước. Khắp nơi văn nhân, tài tử đều hội ở Đô thành Phong Châu, Vua ngự thi tài, gả cho công chúa. Bấy giờ anh hào bốn bể, ai là chẳng vui mừng nhảy nhót, mây phủ quốc đô. Vua ngự thi mọi kẻ nhân tài trong thiên hạ, muốn quyển nghìn kinh, nhòm ngó cung tường Khổng, Mạnh, ba truyền bốn khóa, chẳng nhường thao lược Tôn, Ngô. Thiên hạ hiền tài, đều ở một trường ứng thí; được cái nọ, hỏng cái kia, nhung nhúc lũ dài, đều chẳng phải bậc toàn tài đương thế.

Duy có Sơn Tinh ở núi Tản Viên, Thủy Tinh ở hồ Động Đình, hai người cùng là thầy bạn, có nhiều phép thông thiên, chưa kịp cùng mọi người ứng thí. Giữa ngày mồng 6 tháng Giêng năm Giáp Tý, Sơn Tinh, Thủy Tinh hai người mới biết tin nước cầu quý tế, hai người cùng giao ước hẹn ngày kịp đến kinh thành.

Tâu lên Vua rằng: "Lũ chúng tôi là kẻ dong tài, lạm sinh ở đất nước nhà Vua, trộm nghe đấng Thánh Thượng mở khoa kén r, lũ chúng tôi đến muộn, xin nhà Vua thi tài. May ra cho lũ chúng tôi chẳng phải ra ngoài tờ hịch chiêu hiền."

Vua cả mừng, mời ngay xa giá đến bến sông Bạch Hạc. Vua ngự thi xem: "Sơn Tinh ngồi ở đầu non, Thủy Tinh quay về đáy nước".

Trong khoảng phút chốc, bỗng thấy sóng gió lòng sông, mây mưa mặt nước; Sấm vang đáy bể ầm ầm, điện chớp trước mây nhấp nhoáng, giao long cá giải, quẫy sóng muôn phái lần lần, côn ngạc kình nghê, nổi rợp nghìn sóng lớp lớp. Trời đất một bầu, ba đào muôn đợt. Trong khoảng tờ mờ, trông thấy phải sởn lòng mất vía. Sơn Tinh thì tay tả cầm sách, tay hữu cầm gậy, miệng đọc thần chú, chỏ thì muôn quái nghìn kỳ, đều ở đầu gậy quét hết. Một biến một hóa, đều diệu phóng thần kỳ, huyền vi chẳng biết. Sơn Tinh bèn biến hóa Thần thư ước pháp. Nghìn kỳ muôn quái trăm thư lại triều, một khắc thấy núi ngũ nhạc mọc ở trong sông, cao hơn nghìn trượng, mây ngũ sắc tràn bay Thíu Lĩnh, rồng bay, phượng múa, lân quỳ, voi trắng chín ngà triều phục, voi rừng hổ tợn lại về, muông thú nghìn cầm triều hội, mà diệu pháp Thủy Tinh thì một trận gió mây, khó địch với Sơn Tinh, Sơn Tinh một biến một hóa, Thần thư đại ước lấy Linh trượng trỏ ra, tự nhiên non núi trong sông mất hình, muôn vật biến hóa, đều quay về xứ đất núi rừng Tản Viên.
Vua thấy hai người cũng cùng phép ấy, không biết gả cho người nào, vua bèn dóng xe về cung, sai sứ vời hai người lại, bảo rằng: "Trẫm có hạt ngọc Lam điều, trước đây vua Thục cầu hôn không được. Đến nay hai gã đều là bậc anh hùng, Ngô vui mà Sở sầu, Hán ca mà Tần khóc, chưa rõ định về tay ai, nếu ai sánh lễ đến trước thì trẫm gả cho."

Lúc ấy, Thủy Tinh quay về hồ Động Đình, tìm lấy vật lạ đem làm sính lễ. Sơn Tinh bước thẳng xuống lầu, lấy gậy chỉ lên trời, nguyện xin sánh lễ. Một lúc bỗng thấy voi trắng chín ngà, của ngon vật lạ, muôn vật đều đủ, thực là:

Theo mây đưa xuống tận nơi,
Sơn Tinh thu lấy, lễ thời đủ ngay.

Ngay hôm ấy, vào giờ Tý đem đủ sánh lễ, đệ vào Long Lầu. Vua bèn vời Công chúa lại, gả ngay cho Sơn Tinh. Hai vợ chồng đưa nhau về núi Tản Viên.

Đến giờ Mão, Vua thấy Thủy Tinh đem đủ sính lễ lại dâng. Vua nói: "Sơn Tinh đã mang sính lễ đến trước đây rồi. Ta đã gả Công chúa cho hắn, theo lời ước trước, thôi cũng đừng nản".

Thủy Tinh tức giận quay về thủy cung. Từ đấy cái tình sư hữu trở nên thù oán.

Sau này mỗi năm cứ đến khoảng tháng 7, tháng 8, Thủy Tinh thường hay đem muôn vạn thủy binh, thẳng đến chân núi Tản Viên nổi lên gió to mưa lớn, điện chớp sấm vang. Hai bên lần cùng giao chiến. Thủy Tinh cùng Sơn Tinh chứa oán gây thù. Sơn Tinh tâu lên hoàng phụ Hùng Vương.
Hùng Duệ Vương cả giận, sai tinh binh sưu tầm lấy trăm vạn cân sắt, truyền cho bách công gia tượng (trăm người thợ rèn) luyện đúc thành tấm lưới sắt, dài 266 trượng, rộng cao 50 trượng. Giăng bọc ở bến Thụy Hương, huyện Từ Liêm, ngăn chặn Thủy Tinh không đi lại được.

Thủy Tinh mở ngay một đường thủy đạo thành con sông nhỏ, trên từ ngòi nhỏ Cốc Thôn, chảy xuống sông Nghi Giang, Một giải rẽ ra cửa Hát Môn, huyện Phúc Lộc, xuống đến xứ Sơn Tây, phủ Kỵ Nhân thông sang đến cửa bể Thần Phù. Thời thường căm giận, đem thủy tinh giao chiến, từ xưa đến nay năm nào cũng có.

Hùng Duệ Vương hưởng nước được 115 năm bèn truyền ngôi cho đức Tản Viên Sơn Tinh. Đức Tản Viên cố nhường chẳng chịu nhận. Duệ Vương nói: "Ngôi lớn nhà Hùng đã đến vận cuối, ngươi phải nên thay".

Tản Viên dùng dằng chưa quyết hẳn. Bấy giờ Thục Vương (là Chủ phụ đạo, cũng là trong Tông phái nhà Hùng gọi là An Dương Vương) ở xa nghe biết Duệ Vương nhường ngôi cho con rể là Tản Viên Sơn Thánh. Thục Vương đem binh sang phương Nam để đánh Duệ Vương lấy lại nước. Duệ Vương binh mạnh tướng giỏi, Thục Vương liền thua, không thể địch nổi. Duệ Vương bảo Thục Vương rằng: Ta có nỏ thần, Thục há chẳng sợ chăng!
Sau Vua cậy có nỏ thần khí vũ bị đầy đủ, rồi Vua bỏ việc vũ bị mà không tu sửa, say mê tửu sắc, vui thú trăm chiều. Thục Vương nghe biết, sửa sang 20 vạn hùng binh tiến đánh một đại trận. Quân Thục bức gần đến chân thành, Vua còn say mê chưa tỉnh, quân Vua sắp quăng dáo đầu hàng, Thục Vương chưa khẳng định.

Chương 10:

Duệ Vương cùng triều thần trăm quan dóng xe đến xứ Kinh Bắc, xây thành đắp lũy, gọi là thành Cổ Loa[18], rộng nghìn trượng, xoay tròn như hình trôn ốc. (Nay ở xã Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, còn gọi là thành Cổ Loa).

Xưa kia đắp thành gần xong lại đổ, thấy một con Kim Quy nổi trên sông, từ mé Đông lội lại, xưng là Kim Quy giang sứ. Vua lấy kim bàn mời Kim Quy ngồi đó, hỏi rằng: "Ta đắp thành cớ sao lại đổ?". Giang sứ nói: "Đấy là do lũ quỷ làm hại, phải trừ ngay tinh khí nó đi, thì thành xây tự khắc hoàn chỉnh".

Kim Quy hiện hình, Vua đưa Kim Quy đến cái quán cạnh núi Thất Diệu, giả làm người ngủ trọ. Đến đêm nghe thấy quỷ tinh từ ngoại lại gọi cửa, Kim Quy thét mắng, quỷ không thể xông vào được. Đến lúc gà gáy chúng quỷ tẩu tán, Kim Quy mời Vua theo dõi, đến núi Thất Diệu thì Tinh khí Thu Tàng đã hết. Vua tức khắc sai người đào lên, nhặt được nhạc khí đời xưa và các hài thể cốt, đốt tan ra tro, rồi trút xuống sông. Yêu khí hết sạch.

Từ đấy việc đắp thành chẳng đầy nửa tháng thì xong. Kim Quy bái tạ, Vua lại về điện Loa Thành. Được 2 năm thành này vững như bàn thạch, thiên hạ mới yên. Có một ngày Kim Quy giang sứ tạ Vua xin về sông Bảo Khê nước Động Đình rồi tặng cho Vua một chiếc móng chân bên tả, Vua nhận lấy. Kim Quy tâu Vua rằng: Đến sau có giặc lấn biên thùy, Vua lấy móng rùa này làm lẫy nỏ, linh cơ Thần n, tôi xin về bên bể. Sau mười tám đời này truyền ngôi Vua cho Tây Thục cũng là tôn phái họ Hùng thay giữ trị nước. Việc ấy Vua nên truyền cũng đủ khả năng trị yên được nước này. Hoặc giả quân bên Bắc xâm đến, tới ngay xứ hải Tần gọi giang sứ này lên giúp đỡ".

Lại tâu rằng: "Nước nhà yên nguy, tự có số trời. Cũng nên phòng bị. Vị mà gặp giặc lại, dùng cái móng thiêng này làm nỏ thần n linh cơ, hướng đầu giặc bắn tên thì không lo gì cả. Thiên hạ sinh dân đều được yên vui".

Vua mừng lắm, phong Kim Quy làm Đại Thần Vương. Vua sai cận thần là Cao Lỗ chế ra nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy máy. Đặt tên là Linh Quang Thần Nỗ[19].

Hùng Duệ Vương đã có thần nỗ trị thiên hạ thái bình trăm năm. Trong nước vô sự, trăm họ thần dân yên vui.

Lúc ấy có quân Thục lại lấn. Vua hướng chiếu cho quần thần đưa hịch văn đi khắp thiên hạ, truyền lấy dân quân; rồi lại đưa chiếu hịch văn sang cho quý Tế Tản Viên. Có nói: Nay Thục Vương lại sang xâm chiếm Đô thành nước Chiêm, nhà ngươi nên đem binh lính voi ngựa sang viện trợ ngay. Tản Viên bèn đem binh mã thẳng đến Loa Thành. Cùng với Duệ Vương đặt bày binh trận, dương cao thanh thế. Sau vài ngày đánh nhau với quân Thục, giết hại sinh linh, đánh nhau mười trận đều đại thắng cả. Vua bèn đem thần nỗ trao cho hiền Tế, nhường ngôi nhà Hùng. Tản Viên sơn thánh chịu chính thống của Vương Phụ nhường cho đâu dám bất kháng thụ. Nhờ có Thiên Vương cho Thiên thư ước pháp, hiểu biết thần thông, có Đại tiên chính giốc, suốt nơi thủy giới quán triệt quỷ thần, ngao du núi sơn sông bể trong nước, được hơn mười năm.

Chương 11:

Tản Viên Sơn Thánh can Duệ Vương rằng: "Nhà Hùng hưởng nước lâu dài, ý hẳn lòng trời chiếu có hạn, khiến Thục Vương thừa hấn lại chiếu trung nguyên, nhưng Thục Vương vốn là bộ Chủ Ai lao, cũng là tông phái nhà Hùng. Thế nước chớ nên coi thường, đều do ý của Hiền Vương. Tiếc gì một cõi phương Nam, mà cưỡng ý Trời được chăng! Nếu tự đối địch hại đến sinh linh. Vả nay, bệ hạ cùng tôi, đã có thuật Thần tiên, chẳng gì bằng vườn lặng non bồng, dong chơi trên làng bất lão, lầu rồng gác phượng, tránh sao cái gợn bụi trần. Vàng mười báu lớn, coi nhẹ mảy bông, gái ngọc nàng tiên, nhìn vui hai mắt. Như thế mới là chí khí cao đại".

Vua nghe theo, từ đấy đưa thư cho Thục Vương, nhường cho trị nước.

Thục Vương sai sứ lại tạ, Vua nhân đó trao cho Thục Vương một chiếc nỏ thần. Thục Vương nhận vận Thiên bảo, bái tạ Duệ Vương lên cầm chính nước. Vua bèn quay về núi Nghĩa Lĩnh hẹn với Tản Viên Sơn Tinh, cha con cùng lòng, hóa sinh bất diệt.

Từ khi Thục An Dương Vương được ngôi, nhà Hùng cảm cái công đức của Duệ Vương nhường cho xem như trời đất, há dám quên chăng, bèn dừng xe lên núi Nghĩa Lĩnh, sửa sang lại lâu đài cung điện, làm nơi xã tắc quốc gia, nghìn đời phụng thờ lăng miếu, dựng hai cột đá ở giữa núi, minh thệ trời bể, ngẩng lên Trời mà khấn rằng: "Ước này nguyện có lưới Trời rằng rặc, vật nhân nêu ý, nước Nam Trời giáng Thánh nhân, thời quân làm chủ đời, thay Trời lên trị nước. Nam Việt nhà Hùng, non sông một mối. Nếu sau này thay lên nối trị Nam thành trái ước quên thề, dìu gió búa giăng đó là kẻ bất cơ phụ ước tiền nhân. Nguyện cầu các vua, cúi đầu bái tạ."

 
Hòn đá thề tượng trưng về lời thề của An Dương Vương

Lại dóng xa giá ngự về Đô Thành Phong Châu, bèn vời cành vàng phái ngọc của Duệ Vương đến, ban cống ân lộc, cho theo quốc tính cùng nước cùng vui, cả đến xã Nghĩa Cương là nơi bản quan cho làm những người dân họ nhi lang cai hương trưởng, gọi là làng Trung Nghĩa, tiếp giữ việc hương hỏa phụng tự, cấp ruộng cho xã Nghĩa Cương và các xứ Sơn Lâm, Nghĩa Lĩnh, gồm Tự Điền là năm trăm mẫu, lại cấp sơn điền các xứ. Tô thuế từ Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hưng Hóa mười châu và các đạo Đông Tây Nam Bắc, phủ huyện xã dân, mỗi năm đệ nạp Tô thuế sơn điền, để làm hương hỏa phụng sự 18 đời tiên hoàng đế, gìn giữ Tỷ phù hồng đồ ức muôn năm.

Kể từ Vua Thánh Tổ Cao Hoàng Đế cho đến cháu chắt mọi vua, gìn giữ núi sông Nam Việt, hưởng nước nối dõi về sau, cùng nước cùng vui, ức năm bất diệt. Nay đến Thục An Dương Vương nối trị, trải năm mươi năm, lâu bền hưởng đời, Tông phái đời sau phải nhớ công đức các đời Tiền hoàng đế.

Chương 12:

Thủa trước, vào thời Thái cổ, từ đời Tam Hoàng - Ngũ Đế trở lại đây, xét nguyên mệnh hào trong sách Xuân Thu có nói: "Trước kia, trời đất mở mang ra đời, Hồng hoang Thiên nguyên mở từ năm Giáp Tý, Địa hợi đặt từ năm Ất Sửu; Nhân vận sinh từ năm Giáp Dần. Muôn vật xuất phát từ năm Ất Mão. Từ đời Bàn Cổ, Thái cực sinh ra lưỡng nghi (Trời - Đất), lưỡng nghi sinh ra tứ tượng (Thái âm, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương), tứ tượng biến hóa mà mọi loài lan tràn. Thời hỗn mang, chưa biết rõ khai thủy sáng đạo trời đất, suốt biến âm dương, làm chúa đều Tam tài. Đạo đời dần mở, phong khí dần thịnh, nhân văn rõ rệt, trị giáo tốt sang. Trời sinh bậc Đại Thánh, cha trời mẹ đất, nói rằng: Thiên Tử ra trước mọi vật, mà muôn nước đều yên. Nắm trọng trách to lớn, chẳng phải thế chăng!"

Đời Thiên Hoàng nối Bàn Cổ để trị, ở ngôi Thiên tử, cầm quyền chế tác mới đặt Can chi. Mười can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý), mười hai chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Định năm tháng, ngày giờ hiện tại, khiến cho nhân dân biết hướng mà theo.

Ôi! Có nhân quân một đời dấy làm vua, ắt có pháp chế một đời lên trị nước. Các vua đời sau cứ thế mà cùng nhân theo trăm đời dựa vào đó mà chẳng nghi hoặc, chớ nên khinh nhẹ việc dân mà phải nghĩ là khó, chớ nên yên giữ vị chí mà phải nghĩ đến nguy. Thấy người hiền mà phải nghĩ cho bằng thì mới khá được.

Địa hoàng định ra ba vì sao tinh thần, chia ra ngày đêm, lấy 30 ngày làm một tháng, 12 tháng làm một năm, chứa thừa chia đặt làm nhuận, cứ quay lần lượt sang trước trở sau mà quay lại. Khắc lẻ mà theo giờ, theo lân thứ anh em đều 18.000 tuổi, để cho biết vua tới thiên hạ, chủ tể mọi phương; Sáng lập pháp chế, làm phép muôn đời, khiến cho đời sau ai cũng đều biết ngày tháng là thế; Năm tháng cũng như thế. Cho nên trời sinh thánh nhân tính khí tụ lại, ngôi của quân sư, rất tôn rất trọng, ngôi là ngôi trời, lộc là lộc trời, Thiên Tử thay trời biện lễ vật, với trời ra trị đời, kính trời nép tổ, dè dùng yêu người, chức phận đã dành như thế.

Đời Nhân hoàng một họ chín người. Xét theo núi sông, chia làm 9 khu. Mỗi người ở một phương. Đang lúc ấy, muôn vật sinh thói thường thấm thía làm chủ chẳng để hưng vương, làm tôi chẳng để hưng quí, chức đều hưởng lộc trời rất là phải lắm!

Đến thời Ai Công (Tưởng) nước Lỗ vào đời Xuân Thu, trong năm đi săn bắt được con Lân. Đến năm thứ 14, phàm những Kỷ, Tuế Nguyệt Nhật (năm tháng ngày) được 3.267.000 năm chia làm 10 kỷ. Gọi là: Kỷ Cửu đầu, Kỷ Ngũ Long, Kỷ Nhiếp Đề, Kỷ Hợp Lạc, Kỷ Liên Thông, Kỷ Tự Mệnh, Kỷ Tuần Phi, Kỷ Nhân Đề, Kỷ Thiện Thông, Kỷ Sơ Luật, đều làm 10 kỷ. Từ đời Nhân Hoàng đến Kỷ Tự Mệnh gồm 83 vua. Từ Kỷ Tuần Phi về sau đều truyền đời, trải các đời vua thứ vị khác gọi là Kỷ, mà Kỷ Thiện Thông thì cuối đến đời Viêm Đế; Kỷ Sơ Luật bắt đầu từ đời Hoàng Đế, gọi là Hiên Viên lấy đức trị dân, họ gọi là họ Hữu Hùng, tên xưng là Hoàng Đế, vị gọi là Thần linh. Trị nước dùng binh, phủ dụ muôn dân, cấp năm giống lúa, đo đạc bốn phương, dựng ra chế độ, đính chính triều đình. Bốn thời được thuận, muôn dân vui đẹp, thiên hạ thái bình. Vua có 6 tướng, suốt được thiên địa Thần minh, ở ngôi 100 năm thì mất. Nối đến Đế Minh sinh ra Đế Nghi là con trưởng, rồi đến con thứ là Kinh Dương Vương (húy Lộc Tục, gọi là Kinh Dương Vương, phong sang trị phương Nam), sang trấn trị đất Nam Lĩnh, Vân Nam, Miêu Sơn, xem được phong thủy, bể đảo đúc thiêng, lấy con gái nước Động Đình sinh được một hoàng tử tài lạ hơn người, khí độ sáng suốt, có khôn lớn, bèn phong là Lạc Long Quân (húy Sùng Lãm hiệu Hùng Hiền Vương). Vua cha sắc sai trấn nơi Đô Thành Chính điện núi Nghĩa Lĩnh, lấy nàng Âu Cơ, sinh trăm con giai; Xưng vương trị nước. Khắp trong thiên hạ chư hầu, cùng yên vô sự. Thời đứng vương giả sửa đức cầu nhân, lấy Thổ đức vượng, dạy dân cày cấy, thóc lúa ăn mặc đầy đủ; triều đình chính kỷ cương, tôn ty định thứ vị; cha con anh em, đạo người thảo thuận, con cháu truyền ngôi 18 đời; Đại bảo, Tỷ phù hồng đồ, nối trời ra trị nước Nam. Ngọc bạch xa thư, núi sông một mối, vĩnh truyền ức tải, trăm đời đế vương, trị nước phương Nam được hơn 2650 năm, rất là lâu dài. Còn để lại cho con cháu nhà Hùng giữ nước muôn đời; con thánh cháu thần, dòng dõi trai gái trăm họ đều 14.370 người, gọi xưng là Cổ Việt Hùng thị; các vương tử, quan lang, thổ tù chia trấn núi sông đất Việt. Đến sau chư vương kế trị, các phiên thần thổ tù, quan lang, phụ đạo đều là công thư khai quốc. Lịch Kỷ đến Kỷ Tuần Phi trở xuống thì đời Nghiêu, Thuấn, ngũ đế cho đến ngày nay, hơn 3.000 năm. Trước từ đời Tam đại không bằng đời Đường, Ngu, sau đến Hán, Đường, Tống không bằng đời Tam Đại. Đạo đời lên xuống, chẳng qua chỉ 2, 3 trăm năm thì một lần biến đổi. Cứ 200 năm là một lần tiểu biến, 300 năm là một trung biến, 500 năm là một đại biến. Từ sau khi khai trị, khoảng 4, 5 vạn năm phong khí chưa mở, vẻ người chưa rệt, thủy thổ chưa bình. Đến đời Hy, Nông, Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn lần dấy mà đến hậu vương theo đạo trị vậy. Trước ấy thời Hy, Nông cách đời Bàn Cổ chưa xa, trải gồm mọi tộc có hiệu, dạy đời trị dân, gồm 22 họ. Xét từ đời Hy, Nông, Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn là đời Ngũ đế. Đời Hoàng là nguyên thánh trị thiên hạ ấy vậy! Đời Đế là vua thiên hạ chủ tể ngự thế ấy vậy!

Nay thưa nhân càn khôn gây dựng, thay đức tạo hóa dưỡng sinh.
Hùng Vương năm thứ 32, tháng Mạnh Xuân, ngày Tốt.
Quan Hàn lâm học sĩ sung Quốc Tử Giám là Nguyễn đình Chấn.
Phương Sắc chỉ khâm tặng:
Lễ Bộ Tả thị lang                                        thần Nguyễn Hanh
Binh Bộ Tả thị lang                                    thần Trương Quốc Hoa
Binh Bộ Hữu thị lang                                 thần Phạm Quỹ
Hình Bộ Tả thị lang                                    thần Vũ Hồn
Quảng Lộc Tự Khanh biện lý Lễ Bộ sự vụ thần Phan Huy Biện
Thông chính Phó sứ biện lý Hình Bộ sự vụ
Kiêm quản Thông chính ấn triện                thần Lê Thiện
Hồng lô Tự Khanh biện lý Hộ Bộ sự vụ    thần Mai Đức Thường
Lễ Bộ lang Trung biện lý bộ vụ                  thần Lý Văn Phức
Công Bộ lang Trung biện lý bộ vụ             thần Nguyễn Đình Tân

Triều nhà Nguyễn:
Niên hiệu Hàm Nghi năm đầu, tháng Mạnh Thu, ngày Tốt, là năm Ất Dậu.
Quyển Hùng Vương Ngọc phả do thôn Cá Đốc, xã An Đạo, huyện Phù Ninh phụng thủ.
Lý trưởng xã An Đạo là Hoàng Văn Nhị phụng lĩnh chính bản thừa sao.
Tú tài lĩnh Bang biện huyện là Nguyễn Đỉnh, ở xã An Đạo, phụng khai.
Sĩ nhân xã An Đạo là Hoàng Văn Chứ phụng tả.
 
Lâu Thượng, 13/7/1974 (tức ngày 24 tháng 4 nhuận năm Giáp Dần)
Dịch giả: nguyên Chủ tịch UBKCHC xã Lâu Thượng là Lê Đức Đỗng (Hội viên Chi Hội dân gian tỉnh Vĩnh Phú)
Dịch theo nguyên văn chữ Hán ra quốc văn, y như bản chính
                                                                   (Ký tên)
                                                               Lê Đức Đỗng
 
Ghi chú:  
[1]- Hiện nay có 3 bản ngọc phả Hùng Vương còn lưu giữ được là:
1)- "Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền", còn gọi là Cổ Việt Hùng thị thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyền, soạn năm Thiên Phúc nguyên niên (986 - Lê Đại Hành).
2)- Hùng Vương ngọc phả thập bát thế truyền, soạn năm Hồng Đức nguyên niên 1470 - Lê Thánh Tông do Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyên Cố phụng soạn.
3) - Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyền, Hàn lâm học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572 - Lê Anh Tông).
Đây có thể là “Ngọc Phả Hùng Vương” thứ 4 hoặc là bản được khảo cứu viết kỹ hơn, bổ sung làm rõ một số nội dung của 3 Ngọc Phả trên. Bản Ngọc Phả  này được phát hiện ra tại thôn Cá Đốc, xã An Đạo, huyện Phù Ninh, Phú Thọ. Từ trước đến nay vẫn được lưu giữ tại đền Hùng.  

-  Sưu tầm và cung cấp bản Hùng Vương Kim Ngọc phả Dám thực thục: là Ông Lưu Mạnh Khải (Trưởng họ Lưu Hữu – Lâu Thượng, xã Trưng Vương, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ0, cung cấp cho Ban Nghiên cứu Họ Lưu Việt Nam 19/07/2013).  

-   Quan hệ gia đình với Cụ Lê Đức Đỗng: Ông Lưu Mạnh Khải thuộc dòng họ Lưu Hữu – Lâu Thượng, là cháu gọi cụ Lê Đức Đỗng là ông trẻ; Nghĩa là: Bà nội của ông Lưu Mạnh Khải là Cụ Lê Thị Thức (chị gái của Cụ Lê Đức Đỗng là vợ của Cụ Lưu Hữu Điều - Ông nội của ông Lưu Mạnh Khải) 

[2]- TS Lưu Văn Thành, trên cơ sở bản dịch viết tay của Cụ Lưu Đức Đỗng (được Ông Lưu Mạnh Khải cung cấp, đã cho đánh máy, biên tập và tra cứu những thông tin cần thiết để tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu Họ Lưu Việt Nam).  

[3]-  Núi Côn Lôn:một trong những dãy núi dài nhất Châu Á, bắt nguồn từ Bắc Tây Tạng, trải dài Tây - Đông trên 3.000 km; cao bình quân 5.500-6.000 m, đỉnh cao nhất là Mộ Vĩ Sơn (7.167 m); phía Tây chật hẹp và cao còn phía Đông rộng rãi và thấp hơn; rộng khoảng 130–200 km; Nhánh phía Nam tạo thành đường phân thủy giữa hai sông lớn là Hoàng Hà (phía Bắc) và Dương Tử (phía Nam), còn gọi là Trường Giang.

 
Núi Côn Lôn
 
[4]- Núi Ngũ Lĩnh (còn gọi là Nam Lĩnh, từ “lĩnh” nghĩa là “lãnh - lãnh thổ”) là tên loạt dãy núi ở vùng ranh giới các tỉnh Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc, ngăn cách Lưỡng Quảng với phần lãnh thổ phía Bắc của vùng Giang Nam. Từ núi Ngũ Lĩnh về Nam, gọi là Lĩnh Nam, đất do Lộc Tục làm vua cai quản, giới hạn từ Động Bạch Hổ. Thời trước, ở đây có đền thờ Hai Bà Trưng; Lĩnh Nam cũng là tên nước của Hai Bà Trưng đặt sau khi giải phóng đất nước khỏi quân nhà Hán (năm 40), đóng đô tại Mê Linh (nay thuộc huyện Mê Linh, Hà Nội).

[5]- Kinh Dương Vương: Theo truyền thuyết, Kinh Dương Vương là con thứ hai của Viêm Đế (vua Đế Minh) được sinh ra ở phía Nam sông Dương Tử (Trường Giang); Năm Nhâm Tuất (2879 TCN) lên làm vua phương Nam (phía Nam Trường Giang), cổ tục gọi là quận Giao Chỉ, Kinh Dương Vương đổ thành động Xích Quỷ, rồi là nước Xích Quỷ); Đóng đô ở núi Hùng Bảo Thíu Lĩnh (núi Hồng Lĩnh, tên nôm là Ngàn Hống, nay thuộc Hà Tĩnh ), có 199 ngọn núi chầu về. Lăng mộ Mộ và đền thờ Kinh Dương Vương hiện ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; Lễ hội tưởng nhớ Kinh Dương Vương được tổ chức vào ngày 18 tháng Giêng hàng năm.

 
Đền thờ Kinh Dương Vương
Lăng vua Thủy tổ Việt Nam -  Kinh Dương Vương
(Cả Đền và Lăng đều ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, Thuận Thành, Bắc Ninh
)
 
[6]- Bể Động Đình: là một hồ lớn, nông, dùng là hồ điều hòa của sông Dương Tử (hay Trường Giang). Đây là một trong bốn hồ nước ngọt có diện tích bề mặt lớn nhất tại Trung Quốc (cùng các hồ Bà Dương, Hô LuânThái Hồ), bình thường hồ rộng 2.820 km² có thể tăng lên 20.000 km² vào mùa lũ, rộng như bể/biển ấy. Tên của hai tỉnh Hồ BắcHồ Nam được đặt theo hướng Bắc, Nam của hồ này; Hồ Bắc nghĩa là phía bắc hồ và Hồ Nam nghĩa là phía nam hồ.


Hồ Bể Động Đình

 
[7]- Lạc Long Quân: là Thủy Tổ của trăm họ nước Việt, sinh ra trong cung điện trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc nước Giao Chỉ, thủ đô là Phong Châu (Hạc - Trì ngày nay); Lăng mộ và đền thờ hiện có ở làng Bình Đà, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, TP Hà Nội; Lễ hội tưởng nhớ Quốc Tổ tổ chức từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 3 Âm lịch.

 
Đền Nội Bình Đà, thờ Lạc Long Quân tại xã Bình Minh, Thanh Oai, Hà Nội 
 
[8]- Lang Liêu: là Hùng Chiêu Vương. Lang Liêu còn có tên là Tiết Liêu, không phải là con trưởng mà là con thứ 18 của Hùng Vương thứ 8 (Hùng Huy Vương), được lên ngôi nhờ thắng thi dâng quà lên cho Vua là bánh Chưng hình vuông, tượng trưng cho Đất và bánh Dày hình tròn, tượng trưng cho Trời.

(Ảnh trongdong2 - hình lá dong và lúa nếp)
Hình lá dong và lúa nếp được khắc trong trống đồng Đông Sơn

[9]- Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vương: là Hùng Quốc Vương con cả của Lạc Long Quân và Âu Cơ; Theo bản này thì Hùng Quốc Vương là Thái tử, đứng đầu 100 anh em của Quốc Tổ và Mẫu Tổ, được liệt kê trong 50 người con đi theo Cha xuống biển.  
[10]- Viễn Sơn Thánh Vương: là Hùng Nghĩa Vương con cả của Hùng Quốc Vương, cháu đích tôn của Lạc Long Quân. 
[11]- Ất Sơn Thánh Vương: là Hùng Hy Vương, con cả của Hùng Nghĩa Vương, cháu bốn đời của Lạc Long Quân.
[12]- Đô thành Phong Châu: là Kinh đô thứ 2 Kinh Dương Vương dựng lên phía trước tiền đường núi Nghĩa Lĩnh.
[13]- Trong 50 người con theo Mẹ lên núi: có Lưu Lang, nếu người con này mang họ Lưu thì họ Lưu đứng hàng thứ 78 trong số “Trăm họ, bách tính” của nước Việt (không tính Hùng Quốc vương mang họ vua Hùng), như vậy Họ Lưu theo Mẹ Âu Cơ lên núi. Một sự suy luận logic khác là Vua Hùng Quốc Vương (Đột Ngột Cao Sơn Thành Vương) được tính trong số 50 người con theo Cha (Lạc Long Quân) xuống biển. Tuy nhiên, theo tài liệu giới thiệu về Khu di tích Lịch sử đền thờ Mẫu Tổ Âu Cơ (tại Hiền Lương, Hạ Hòa, Phú Thọ) của Ban Quản lý khu Di tích thì Mẹ (Âu Cơ) đưa 49 người con lên núi, mở đất sinh cơ lập nghiệp. Nghĩa là Hùng Quốc Vương được tính vào số 50 người con theo Mẹ lên núi... Dù trường hợp nào đi nữa thì Lưu Lang (nếu là người con mang họ Lưu) thì cũng nằm trong số theo mẹ lên núi mở đất lập ấp, sinh cơ lập nghiệp...

 
Đền thờ Mẫu Tổ Âu Cơ tại xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, Phú Thọ

[14]- Phù Đổng Thiên Vương: là một trong bốn vị thánh bất tử (Tứ Bất Tử của nước Việt), gồm Thánh Gióng (Phủ Đổng Thiên Vương - tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ), Chử Đạo tổ (Chử Đồng Tử - tượng trưng cho tình yêu, hôn nhân và sự sung túc giàu có), Sơn Tinh (Tản Viên Sơn Thánh - tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai) và Liễu Hạnh (Mẫu Thượng Thiên - tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, phúc đức, sự thịnh vượng, văn thơ). Như vậy, Thánh Gióng xuất hiện đánh giặc Ân cứu nước từ thời Hùng Vương thứ 6 (Hùng Hoa Vương), cách đây khoảng    

[15]- Chùa Thiên Quang: là chùa nằm trong Khu di tích lịch sử Đền Hùng (bên cạnh đền Hạ), trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Như vậy, đạo phật đã xuất hiện tại Việt Nam từ thời Vua Hùng thứ 7 (Hùng Hy Vương).

 
 Chùa Thiền Quang - còn có cây Vạn Tuế gần 800 tuổi (Đoàn Khảo sát Họ Lưu ở Phong Châu, chụp ngày 6/9/2013)

[16]- Nàng Ngọc Tiêu: là Tiên nữ giáng thế, được Hùng Vương thứ 7 gặp trên đường lên chùa Tây Thiên lập đàn cúng tế lấy làm Hoàng nhất chính Phi và sinh ra Hùng Vĩ Vương (Hùng Vương thứ 8).
 
Đền thờ Quốc mẫu Lăng Thị Tiêu
 
[17]- Thục Vương: là Thục Phán, cũng là tông phái nhà Hùng. Như vậy, Thục Vương đã có mưu đồ muốn chiếm nước Lạc Việt từ thời Hùng Vương thứ 17, nhưng còn sợ sức mạnh của Vua Hùng nên chỉ dám thăm dò.

(ẢNH ĐỀN ADV)
 Đền An Dương Vương
(Tại làng Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội)

[18]- Thành Cổ Loa: là thành được Hùng Duệ Vương (Vua Hùng thứ 18) xây tại Kinh Bắc (nay thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội), khác với các tư liệu sử khác là do An Dương Vương cho xây dựng.
 
 Thành Cổ Loa, một trong thành cổ nhất Việt Nam
(Xây dựng thứ kỷ 3 TCN, tại làng Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội)

 
[19]- Linh Quang Thần Nỗ: là nỏ thần, do Cao Lỗ chế ra từ thời Hùng Duệ Vương, nhiều tư liệu lịch sử khác cho là được chế ra thời An Dương Vương để đánh quân của Triệu Đà.
  
 (ẢNH T6-cao-lo)
 Đền thờ Cao Lỗ Vương
(Tại Vạn Nịnh, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh)
 
Nỏ thần được Cao Lỗ người Âu Lạc sáng chế ra từ thế kỷ thứ II TCN
(Sử cũ phương Bắc ghi người sáng chế là Cao Thông thuộc nước Âu Lạc)
 
[20]- Hùng Vương: đã trở thành Quốc Tổ dựng nước của nước Văn Lang trong Tiền Sử và của 54 dân tộc anh em trong khối đại đoàn kết các dân tộc của nước Việt Nam ngày nay. Năm 1954, Bác Hồ đã có câu nói nổi tiếng: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”với đoàn quân tiến về tiếp quản Thủ đô Hà Nội.

 
Bác Hồ nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 16 tại Đền Hùng (Phú Thọ)
Ảnh nhận bằng Di sản VN TG Ảnh Lễ Hội đền Hùng 2013

(Ảnh bắn pháo hoa đêm 13/4/2013)
Tại lễ Hội đền Hùng năm 2013 (tổ chức vào đêm 13/4) “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương”
đã chính thức Di sản Văn hóa phi vật thể của Nhân loại.

 
TS Lưu Văn Thành – Lưu Mạnh Khải


Gửi ý kiến của bạn
(Xin hãy viết chữ có dấu! Xin cảm ơn!)